I’ve heard the saying “That sucks” for years without really being sure of what it meant. Now I think I know.
—Stephen King, The Stand
Hôm qua là ngày cuối tôi làm việc ở trường Uni Hamburg. Tôi thậm chí còn không để ý (căn bản vì vẫn còn vướng mấy việc tồn đọng), cho đến buổi chiều họp online với bà cô, bà cô hỏi, tôi mới ngớ người ra. Đến tối, tôi khui một lon bia, mừng mình khép lại một giai đoạn, sáu năm chứ ít gì.
Thế là hôm nay, tôi bước vào ngày đầu tiên chính thức thất nghiệp. Thất nghiệp một vài tuần, giải quyết xong mấy việc cũ, rồi tôi sẽ bước vào một công việc mới, ở một trường mới, một thành phố khác, cách Hamburg tầm 3 tiếng đi tàu.
Nghe có vẻ như không có gì khác biệt. Hay nói như người Pháp, lại một vòng xoáy “Métro, Boulot, Dodo” khác: sáng bắt tàu, ngày đi làm, tối về ngủ. Nhưng với tôi năm qua là một magical year. The year of magical thinking, như cách nói của Joan Didion. Tức là, nó không phải thần kỳ theo kiểu nhảy vọt, nhưng nó quá packed, quá sống động, quá lắt léo, nó làm thay đổi cách ta suy nghĩ về thời gian. Nó không phải bước ngoặt, nhưng nó disrupt cách mà ta vẫn nghĩ.
Vài tuần trước, khi tôi mới được chỗ mới họ nhận, mặc dù với thủ tục hành chính ở Đức thì có lẽ phải cả tháng sau bên HR mới chính thức đủ thông tin để làm việc với mình, tôi ghé lại quán cà phê quen gần văn phòng, chào nó một cái.
Gọi là “quán” thì hơi quá. Nó là một trong những “chỗ” uống cà phê lụp xụp nhất mà tôi từng thấy ở Hamburg. Nằm trong khuôn viên trường, quán này mượn mặt tiền bên hông một chi nhánh ngân hàng Hamburger Sparkasse, hay gọi là Haspa, cái chữ nê-ông như bạn thấy phía trên hai người phụ nữ đang đứng. Ở trong trường có nhiều tiệm cà phê và bán đồ ăn nhanh; gần đây tôi hay vào tiệm này vì nó có máy cà phê áp suất, dĩ nhiên ngon hơn máy cà phê tự động.
Chỗ tôi chụp nhìn tới, như bạn thấy, là một cột bê tông, trên đó gắn một thùng rác. Sau lưng tôi là bãi xe đạp sinh viên để ngổn ngang. Tôi không thể tìm được góc nào ưu ái hơn, là bạn đủ hiểu, tiệm cá phê này lụp xụp đến mức độ nào. Bên tay phải là mấy ghế ngồi được đóng bằng ván gỗ, rất đặc trưng kiểu sinh viên. Thời sinh viên của tôi không có ghế như thế (hoặc là do mình chưa bao giờ ngồi), nhưng tôi đoán, ngồi trên cái ghế như thế và phía trước có cái bàn thấp như thế, người ta sẽ nói chuyện nhiều hơn. Rất kiểu sinh viên.
Còn ngoài ra là mấy cái ghế và bàn, không biết mô tả thế nào, kiểu… để đó chó nó lấy.
Từ phía cà phê nhìn sang đối diện, né cái đống xe đạp sang một bên, ta thấy vài dãy bàn ghế khác. Mấy bàn ghế này phục vụ cho quán cà phê ở phía trong cửa kính. Họ bán cà phê bằng máy tự động, hôm nào thích rẻ thì tôi uống ở đó, rồi ra ngoài này ngồi.
Mặt tiền tòa nhà toàn bê tông. Trên trần phía ngoài có gắn mấy đèn nê-ông, đủ sáng cho những chỗ nào cần sáng. Vừa tiết kiệm và đủ xài kiểu Đức, vừa có hơi hướng xã hội chủ nghĩa. Lại một lần nữa tôi nghĩ, rất đặc trưng kiểu sinh viên. Ừ, thì xét về mặt nào đó, tôi cũng vẫn là sinh viên, nhưng là sinh viên già. Sinh viên già tức là già rồi vẫn đi học. Đi làm mà theo kiểu đi học. Dầu sao, qua cái năm thần kỳ này, tôi nghĩ mình không nên coi mình là sinh viên nữa. Nó có vẻ “háo danh”, vì dầu sao đi nữa, làm sinh viên thực sự là một đặc quyền.
Nghía xong bên này rồi, tôi quay lại quán bên Haspa gọi cà phê, một ly Mandel Latte. Latte pha bằng sữa hạnh nhân, tôi thấy thơm thơm nên dạo này hay uống. Rồi tôi ngồi vào một trong những bàn mà “chó nó lấy”.
Hồi mấy tháng hè, sáng nào đến văn phòng tôi cũng ra chỗ này mua cà phê và ngồi ở những cái bàn đấy. Từ tháng Tư đến tháng Tám là đợt cao điểm tôi có đến 5 thư mời phỏng vấn xin việc. Cũng may là mỗi cái hẹn thường cách nhau khoảng một tháng, nên tôi có thời gian chuẩn bị. Tôi thường mang theo vài tờ giấy, cây bút và ngồi nghĩ ngợi ở mấy cái bàn này, trong khoảng thời gian thường là 8 giờ đến 10 giờ sáng.
Làm postdoc có rất nhiều điểm bất lợi, lúc nào tôi kể sau. Một trong những bất lợi khi xin việc postdoc, khác với xin việc vào làm tín dụng chẳng hạn, là mỗi công việc lại là một thứ gần như hoàn toàn mới. Mọi thứ trước đó liên quan đến ta đều cần một hình hài mới.
***
Tôi đã kể ở đây, có lần nộp đơn vào một dự án nghiên cứu về các chương trình tên lửa ở châu Âu. Không nói phét. Tôi nộp kha khá chỗ trong mảng rộng của mình là Science and Technology Studies (hay gọi là STS) hay Anthropology of Technology. Tôi nộp vào tất cả những chỗ mình thấy hứng thú, và rằng mình có thể đóng góp thứ gì đó.
Thường thì (tỉ lệ này ở mỗi hoàn cảnh mỗi khác) tôi nộp 5 chỗ được một chỗ gọi phỏng vấn. Tôi được tổng cộng 6 chỗ gọi tính từ đầu năm đến nay. Bỏ qua chỗ cuối cùng tôi từ chối đi phỏng vấn - vì bực mình, nhưng để lúc khác kể, thì tổng cộng tôi trải qua 5 cuộc phỏng vấn postdoc. Mỗi cuộc giống như một kì thi thời đại học. Giống như trong một học kì, tôi phải đăng học rồi thi 5 môn ở 5 module khác nhau; có module về AI, có module về cái gì quên rồi, có module về triết (tôi nộp một chỗ về philosophy of science), có module về xã hội học, và module về nhân học/châu Á học.
Tôi chưa từng rớt một môn nào trong cuộc đời đi học của mình (à, có rớt thi lái xe thực hành ở Đức, nhưng chắc không tính nhỉ), thế mà “học kì” vừa qua, tôi rớt cả bốn môn. Mỗi lần rớt là một lần tự bảo mình “that sucks”, y như câu epigraph của Stephen King ở trên. Now I think I know.
Tính tôi lại không hữu dụng cho việc multitask. Trừ những khi bắt buộc phải “đa nhiệm”, thường thì không hiệu quả lắm, tôi thường tập trung hết sức vào một việc cụ thể, giải quyết cho nó đáng, rồi sang việc khác. Ai từng trải qua những cuộc phỏng vấn xin việc tương đối tough sẽ biết, ta phải “nhúng” mình vào con người và công việc cụ thể ta dự định sẽ làm. Ta phải hình dung tất cả các tình uống có thể xảy ra, đặt mình vào đó, và tự hỏi mình sẽ làm thế nào — cả về mặt chuyên môn (Nghiên cứu khía cạnh nào? Sẽ dùng phương pháp gì? Dựa trên lý thuyết nào?, etc.) lẫn phong cách làm việc, cách hợp tác trong nhóm nghiên cứu.
Tôi thuờng nhúng mình trên những chiếc ghế mà “chó nó lấy” ấy. Hình dung rồi tưởng tượng, rồi ghi chép và khi về lại văn phòng tôi sẽ ghi lại chi tiết hơn, kiểu tạo ra một câu chuyện mà mình là người kể. Kể những gì người khác muốn nghe. Một tự sự về mình nhưng không phải về mình. Tự sự ấy linh hoạt, hơi có chút lãng mạn thần kỳ, hơi có chút hiện thực trần trụi, đồng thời có chút lớp lang thắt nút mở nút. Khi đã qua được vòng CV, quan trọng là cách kể chuyện.
Mỗi khi nào nhúng mình sâu quá và tự thấy mình hồi hộp thay cho người kể chuyện — lúc đấy đang chìm trong cuộc phỏng vấn thực tại ảo (hehe), tôi sẽ đứng lên đi dạo xung quanh khuôn viên trường. Khuôn viên trường tôi khá xấu nên chẳng có gì để kể, nhưng tôi nghiệm ra, đi bộ là cách rất tốt để chống lại choét. Từ lúc hay đi bộ tôi phát sinh một thói quen là hay chụp lại các loại cây cỏ và xem nó là cây gì, cỏ gì. (Tôi dùng app có tên là PictureThis). Tôi đã có thể phân biệt được 3 loại cây phổ biến là plane (tiêu huyền), Norway maple (thuộc họ cây phong) và linden (cây đoạn). Tôi nghĩ một lúc nào đó mình sẽ thử món bird watching, nhưng thực sự tôi không có hứng thú với chim chóc nhiều như là với cây cỏ.
Những khoảng thời gian như thế làm tôi thay đổi cách nghĩ về cách làm việc và sự hiệu quả. Và gián tiếp với nó về thời gian. Một thời gian ngắn không cho phép ta trở thành chuyên gia trong một lĩnh vực hẹp cụ thể. Thay vào đó, ta nhúng mình vào tình huống và tự hỏi mình sẽ làm gì và tại sao. Cách đối phó sẽ rất khác, giữa việc ta suy nghĩ khi đi bộ hay ngồi uống cà phê, và suy nghĩ khi nghe một bài giảng trên Youtube. Ta không bao giờ có đủ thời gian để nghe hết, đọc hết, xem cho trọn, nhưng ta luôn có lựa chọn để dừng lại và suy nghĩ. Đó cũng là một lựa chọn để tách rời và, theo nghĩa nào đó, để siêu vượt.
Giữa muôn vàn nhân vật, ta luôn có lựa chọn để nhúng mình vào một nhân vật nào đó, và mang cho họ một chuyện kể. Chuyện kể ấy là của ta, dầu nó vẫn mang theo những giới hạn, những ngõ cụt, những chỗ thiếu kiểm soát, những sự nhàm chán. Và sau rất nhiều lần ngồi ở những cái ghế “chó nó lấy”, tôi nhận ra nhân vật ấy không có tên và chẳng cần có tên. Nhân vật ấy sẽ biến mất và bị xóa sạch dấu vết ngay khi mục đích đạt được hoặc chuyển sang mục đích khác. Nhưng sẽ là một phần của ta. Hay gọi một cách thời thượng, một phần của “consciousness”.
Ấy là cách tôi nhìn nhận về the year of magical thinking của mình. Magic có thể hiểu là trò ảo thuật. Là thuật tức là không thật. Nó chưa bao giờ là thật và vì thế nó gần đến thật hơn bao giờ hết. Ít nhất là nhờ nhìn vào ranh giới đó, tôi biết được rằng khoảng thời gian qua mang lại cho tôi “magical thinking”, một trò chơi Lego của ý nghĩ, một cách khác để nhìn ra các hình hài và chỗ đứng. Ít nhất là tôi thấy cần phải ghi chép lại.