(TLDR: Bài chỉ dành cho những người mê hoa.)
1.
Ngày xưa học toán, chúng ta được làm quen với khái niệm ánh xạ. Cho hai tập hợp X và Y. Ánh xạ từ X đến Y gọi là đơn ánh nếu với mỗi hai phần tử khác nhau ở X, sẽ có hai ảnh tương ứng khác nhau ở Y. Còn gọi là toàn ánh nếu với mỗi ảnh ở Y đều tồn tại một phần tử ở X. Thế đố các bạn hình ảnh ở dưới là ánh xạ gì?
Dĩ nhiên các nhà toán học sẽ có một tên cho nó nhưng mà tôi chưa học đến. Tôi tạm gọi nó là ánh xạ Hoa Cúc. Ánh xạ Hoa Cúc thể hiện mối quan hệ phức tạp giữa thế giới của từ và thế giới của khái niệm. Hai khái niệm A và B có thể trỏ đến cùng một từ. Trong khi đó, hai từ khác nhau (2) và (3) có thể cùng trỏ đến khái niệm C.
Và cũng dĩ nhiên, lĩnh vực ngôn ngữ cũng lằng nhằng không thua gì lĩnh vực toán học (phát biểu giống Carnap nhỉ), và sơ đồ đơn giản trên đây không thể mô tả được hết các mối quan hệ họ hàng. Từ đồng âm (homonym) là một ví dụ cho mối quan hệ giữa (1) và A-B. Thế nhưng từ đồng âm còn có ít nhất hai nhánh con:
Đồng âm dị nghĩa dị dạng (homophone). Một ví dụ khá dễ hiểu trong tiếng Anh là air và heir. Hay cuốc và quốc (đố bạn nào phát âm khác nhau được đấy!)
Đồng âm dị nghĩa đồng dạng (homograph). Trong tiếng Việt, chúng ta nói “đồng âm khác nghĩa” tức là rơi vào dạng này. Ví dụ này tôi được học hồi lớp 5: “Hôm qua qua nói qua qua mà qua không qua”. [Tạm bỏ qua chuyện viết hoa đi nha.]
Lại đố tiếp, theo các bạn có hai từ nào đồng âm đồng nghĩa mà dị dạng không? Mời các thánh ngôn ngữ.
2.
Bạn nào từng đi chợ ở nước ngoài chắc cũng biết mackerel là cá thu. Chúng ta sẽ phân vân hơn một chút nếu muốn ăn… cá hồi. Có hai loại cá hồi phổ biến ở chợ Tây, đó là salmon và trout mà tiếng Việt gọi là cá hồi và cá hồi sông/ cá hồi chấm. Như vậy ta không chỉ có ánh xạ Hoa Cúc giữa khái niệm và từ, mà còn giữa những ngôn ngữ khác nhau, vì đơn giản là khi trỏ từ ngôn ngữ này tới ngôn ngữ kia không phải lúc nào ta cũng tìm được hai khái niệm hoàn toàn đồng nhất, như mặt trời (sun) hay mặt trăng (moon).
Một từ như “cá hồi” có thể trỏ đến salmon hoặc trout. Hay ở một mối quan hệ khác, poppy là hoa anh túc/ hoa thuốc phiện nhưng cũng có người gọi là hoa mỹ nhân. Đi chợ lựa món cũng giống như học ngôn ngữ vậy, chỉ cần đi một vài lần là ta biết con cá trout khác với con cá salmon. Việc nó có đúng là cá hồi sông không không ảnh hưởng đến recipe của món ta muốn nấu: con salmon phải đi với gia vị này, con trout phải đi với gia vị kia, đại loại như vậy.
Nhưng nếu bạn hỏi con nào mới thực sự là cá hồi, thì có hai phương án tìm lời giải. Cách thứ nhất là dựa vào cảm quan chung. Dĩ nhiên, salmon vẫn luôn được hiểu phổ biến và được dịch là cá hồi. Như vậy nếu trout là cá hồi thì nó phải là một loại cá hồi khác. Cách thứ hai, thỉnh thoảng tôi vẫn làm, đấy là truy về tiếng Hán. (Tiếng Hán tôi không biết gì đâu, tôi toàn tra từ trang này.) Salmon tiếng Trung là 鮭魚 (hài ngư), hài là hồi, vậy là đúng rồi. Trout tiếng Trung là 鱒魚 (tỗn ngư), tên thuần Việt là cá chày, cá rói. Vậy là khác rồi ha. Câu chuyện cá hồi hay không phải cá hồi không có gì quá phức tạp. Tôi chỉ thắc mắc mỗi chuyện là con salmon đôi khi cũng có tí chấm mà gọi con kia là cá hồi chấm thì có phải oan cho nó không.
3.
Ta hãy đi vào một ca phức tạp hơn. Bạn nào hay đi chợ chắc cũng biết “bánh mì hoa cúc” phải là đúng loại bánh này: nhãn bánh Pháp Harrys Brioche Tressée. Nhưng tôi cứ thắc mắc: có thành tố hoa cúc nào trong bánh này đâu nhỉ? Brioche là một loại bánh của Pháp, còn tressée à la main là tết bằng tay (vì trông cái bánh giống bím tóc í). Hoa cúc có thể vì nó bánh màu vàng, hoặc thơm màu hoa cúc (mời comment). Nhưng ai nghĩ ra từ “bánh mì hoa cúc” công nhận cũng tài. Nghe là đã thấy ngon.
Thế rồi, ai đi chợ hẳn sẽ biết loại trà này gần đây nổi: Trà hoa cúc Marigold nhập từ Singapore. Trà này đích thị có thành tố hoa cúc rồi, in hẳn hình bông hoa lên bìa còn gì. Nhưng bạn nào tinh ý hẳn sẽ nhìn thấy vấn đề ở đây: đã Marigold lại còn Chrysanthemum.
Cả hai đều chỉ hoa cúc, hay nói chính xác hơn, chrysanthemum các thể loại từ điển dịch là hoa cúc, còn marigold thường được gọi là hoa cúc vàng (chắc vì có “gold”, mà thật ra nó cũng vàng thật), đôi chỗ dịch là cúc vạn thọ.
(Marigold thường có màu vàng nha [nguồn hình]. Cúc vạn thọ là chính xác mấy bông màu cam í.)
Thật ra, sự lúng túng trong việc chọn tên gọi phổ thông, một phiên bản dân dã tương ứng với phiên bản danh pháp khoa học, không chỉ là vấn đề trong tiếng Việt. Trong tiếng nào cũng có trường hợp thiếu thống nhất như vậy. Hay thấy gần đây là “Spanish flu”, mặc dù chẳng có gì liên quan đến Spain cả. Marigold cũng có dăm bảy loại, và có thể trỏ đến ít nhất hai chi khác nhau: chi Calendula và chi Tagetes. Nhưng vấn đề trong tiếng Việt, tôi cho là các cụ ngày xưa dựa vào cách phân loại phương Tây (Pháp/Nga), dịch sang tiếng Trung, luận ra tiếng Hán rồi đưa vào tiếng Việt. Đặc biệt trong vấn đề hoa cỏ, lại thiếu một hệ thống phân loại trọn vẹn, hợp lý, và quan trọng là nhất quán. Như vậy các loài căn bản bị bám vào cái gốc tiếng Trung, mỗi khi có một từ mới lại phải chế biến chắp vá vào. Như từ Cúc.
Rất may, và cũng rất tiện cho nhà phân loại tay ngang thời hiện đại là Wikipedia có liên kết khái niệm ở những ngôn ngữ khác nhau, và ở những ngôn ngữ lớn (Anh/Đức), các tên riêng sẽ được dẫn tới chỉ mục tương ứng ở cơ quan quy định tên riêng có thẩm quyền (phương pháp này gọi là authority files control), như ví dụ dưới đây. Nếu ta tra cứu “Cúc tâm tư”, trang Wiki tiếng Việt sẽ dẫn tới Calendula officinalis. Phía dưới trang sẽ có định danh cố định (unique identifier) tên riêng đó tại cơ sở đề mục của Wikidata hay APNI, cơ quan phân loại cây của Úc.
4.
Chúng ta quay lại với ví dụ về “trà hoa cúc”. Nếu chrysanthemum là hoa cúc, vậy daisy là hoa gì? Dĩ nhiên cũng là hoa cúc nốt.
Bằng cách tra cứu qua Authority Files nói trên ta sẽ tìm thấy:
Chrysanthemum là danh pháp khoa học của chi Cúc. Tiếng Trung: 菊屬 (chi Cúc).
Bellis perennis là danh pháp khoa học của loài hoa daisy. Wiki tiếng Việt không chỉ ra được tên tiếng Việt. Tiếng Trung: 雛菊 (loài cúc nhỏ)
Chi cúc thì thuộc họ Cúc (Asteraceae). Tiếng Trung: 菊科 (khoa Cúc).
Tagetes là chi Cúc vạn thọ, vì tiếng Trung là… 万寿菊属 (chi Cúc vạn thọ). Còn Tagetes patula là loài Cúc vạn thọ nhỏ.
(Các bậc phân loại chính [nguồn])
Từ đó, chúng ta có thể đặt ra một câu, về mặt phân loại học rất logic nhưng về mặt ngữ nghĩa thì gần như ngớ ngẩn:
Trong họ Cúc có chi Cúc, chi Cúc vạn thọ, lẫn chi Cúc vạn thọ tây. Trong chi Cúc vạn thọ có loài Cúc vạn thọ nhỏ.
Chưa hết, Cosmo cũng thuộc họ Cúc, tiếng Trung là 秋英屬 (Thu anh) nhưng tiếng Việt lại là chi Cúc chuồn, có nơi còn gọi là Cúc sao nhái hay… Cúc vạn thọ tây. (Cái gì không biết đặt tên là gì thì thành “tây” hết). Có thể vì loài/chi này mới du nhập vào tiếng Việt chăng?
Chúng ta vẫn hay nghe lập luận rằng tiếng Việt có hay có sang là nhờ tiếng Hán. Tiếng Hán, cũng giống như tiếng Hy-La, có thể truyền tải được những khái niệm triết lý trừu tượng hay khoa học hàn lâm mà cơ sở tiếng thuần Việt thì chịu. (Tôi không đồng ý lắm, nhưng hãy bàn vào dịp khác). Chính tâm lý dựa dẫm vào tiếng Hán này đã tạo ra tình cảnh là một khi tiếng Hán lúng túng thì tiếng Việt cũng cứ thế mà đâm đầu vào ngõ cụt. Một loạt các từ chỉ các loài cây/ loài cá/ loài hoa quả… (tôi vẫn còn nhiều ví dụ lắm) được đặt tên theo kiểu chắp vá, thiếu cơ sở và dẫn đến việc tra cứu của thế hệ sau vừa mệt mỏi vừa không chắc chắn. Hệ quả nhãn tiền là từ điển Lạc Việt (từ điển Anh-Việt trên máy tính phổ biến nhất) và các sản phẩm phái sinh từ nó chứa một mớ thuật ngữ hổ lốn, không thể dùng được.
Thế các bạn đã biết là hoa cứt lợn thuộc họ gì chưa?