1.
Hôm bữa tôi ngồi với chị bạn, chị biên tập viên tờ báo tôi đã kể ở đây. Chúng tôi hào hứng nói chuyện với nhau về truyện ngắn, về học tiếng Đức, và việc làm căn cước công dân mà hẹn mãi hẹn mãi vẫn chưa lấy được. Chúng tôi nói chuyện với nhau về cuốn tiểu thuyết mới đây mà cả hai cùng rất thích và đọc say sưa: Giờ Đức văn của Siegfried Lenz. Trong cuốn sách, người kể chuyện là cậu bé Siggi Jepsen. Cậu biên lại dòng ký ức liên tu bất tận về tuổi thơ cậu dưới nước Đức thời phát xít, về người bố làm an ninh, và nỗi ám ảnh của cậu phải cứu vớt những bức tranh có thể bị thu gom và tiêu hủy.
Giờ Đức văn có mạch kể khá lạ. Các ký ức đan xen, tùy vào miểng nào có ưu tiên tới trước. Siggi lọt thỏm trong một “nhà tù” dành cho thanh thiếu niên ngang bướng, ở ngoại ô Hamburg. (Vô tình thay tôi gặp khá nhiều cuốn tiểu thuyết xoay quanh địa danh Hamburg, như Núi thần, Giờ Đức văn, hay A Most Wanted Man của John le Carré — Rachel McAdams xinh thật!) Siggi hình như gặp một hiện tượng thuộc về hậu sang chấn tâm lý. Cậu bị “ú ớ” trước nhiều tình huống ngoài dự đoán và không biết phải làm sao; cậu chỉ có thể diễn đạt bằng cách viết. Chuỗi ký ức gần như không có thắt nút mở nút, nhưng tôi nghĩ mỗi người, nếu tuổi thơ sống ở Việt Nam, sẽ tìm thấy tất tật các drama của mình ở trong đó.
Trong một phân đoạn kể, Siggi viết như sau:
Ai đã kể lại chuyện xưa, thì người ấy — cũng giống như một nhà buôn nào đó lúc cân đong hàng hóa vậy — ắt phải tính đến các thất thoát; tôi cũng thế, tôi để thất thoát bớt các chi tiết, tôi để bố tôi thôi không nhìn thẳng vào mặt ông họa sĩ nữa, mà chỉ lướt ánh mắt lạ lẫm nhìn cả mấy ông một lượt rất nhanh, rồi từ từ quay người, bước đều đều về phía mô đất, leo lên nơi có công sự - là nơi ông đinh ninh, ông đã nhận lệnh phải có mặt đến cùng.
Chuyện xưa giống như những con sóng. Chúng đánh uỵch vào lưng ta và xô ta ngã xuống bãi cát (mẹ tôi thì hay bảo là “ngã dúi dụi” và bị kéo lê “xoành xoạch”). Và khi quay trở ra, chúng kéo ta bất thình lình về phía biển, bất chấp những kháng cự. Sóng, cũng như chuyện xửa chuyện xưa, luôn mang “độc tố”. Nó làm ta mất thăng bằng, ngã khuỵu, đau đớn và khó chịu, bần thần và hoang lạc. Chúng kéo ta vào một miền không lường trước.
2.
Những thất thoát của tôi, trước tiên là do trí nhớ. Ký ức đầu tiên tôi có được là quãng năm ba bốn tuổi, mẹ chở tôi trên chiếc xe Cub 82 đến cửa hàng cô người quen ở đâu đó gần bãi Trước. Dường như mẹ tôi đến để an ủi cô chuyện cô hục hặc với chồng. Tôi được đặt ngồi trên một tủ kính của cửa hàng; vì tôi nhớ là một tủ kính, nên khả năng cao đó là một cửa hàng rửa ảnh, ở đâu đó gần bãi Trước mà, và trong tủ kính sẽ đặt nào là lens, máy ảnh cơ cũ, các cuộn phim Kodax, v.v. — tôi hình dung như thế. Tôi không nhớ hai bà nói chuyện gì. Nhưng cô bạn mẹ tôi, tôi nhớ rất, có phát biểu một câu, rằng: “Cái buồi của nó thì cũng bình thường như bàn tay mình ấy mà.” Ý tức là (tôi đoán), thằng ấy cũng chỉ tầm phào thôi.
Ký ức tiếp theo, không biết sau hay trước (nhưng có lẽ là trước), là năm tôi hai hay ba tuổi (hình như tôi kể chuyện bị ngược), mẹ với tôi nằm trên võng, bà hát cho tôi bài “Lá Diêu bông”, tức là bài “Sao em nỡ vội lấy chồng”. Tôi nhớ rõ điều này từ khi nghe bản cover của thaiengg và Thắng Nguyễn. Giọng của thaiengg quá xuất sắc.
Suốt những năm mẫu giáo, tôi gần như chỉ nhớ một chuyện. Ấy là thằng bạn thân sau này (cấp hai) của tôi hồi ấy cũng học chung mẫu giáo, nó sinh trước tôi một năm và vì thế khá ranh mãnh. Nó kéo đám trẻ bọn tôi ra một góc và kêu cả đám so dép với nhau. Nó bảo, dép tao cỡ to hơn dép chúng mày, như này này.
Tôi có thất thoát gì không? Tôi có còn nhớ chính xác, hay những chi tiết ấy là do tương lai (nhưng cũng là quá khứ) sau này tự đơm đặt?
Đến những năm cấp một thì tôi nhớ rõ điều này. Tôi một có tiệm sách cũ hay ghé thăm ở đường Nguyễn Văn Trỗi. Tiệm sách cũ nhỏ thôi, chỉ khoảng chưa tới mười lăm mét vuông. Tôi hay đến đó mua sách toán, thỉnh thoảng tôi cũng lượm được nhiều quyển hiếm, như Cuộc đời Hồ Chí Minh hay Chiến tranh và hòa bình bản tiếng Nga. Đến những năm cấp hai tôi dạn dĩ hơn, một lần tôi hỏi chị vợ anh chủ quán, rằng họ có cuốn nào về chiến tranh biên giới năm 79 không. Chị bảo, sách đấy làm sao còn. Đến tận bây giờ, tôi vẫn chơi thân với anh chủ quán. Anh thích nói chuyện với tôi về xứ Lâm Ấp, về vương quốc Chàm, tiếng Chăm pa và tiếng Kinh. Chúng tôi khá gần quan điểm với nhau về tiếng Việt.
3.
Tôi có khá nhiều người bạn từ lâu không liên lạc. Tôi nghĩ, chắc ít có người nào đã từng ở với nhiều coloc (housemate) như tôi. Mấy năm ở Úc, tôi kinh qua có lẽ gần hai chục housemate. Năm đầu ở Úc, tôi ở chung nhà với mấy anh chị hơn tôi chừng chục tuổi. Các anh chị này sang Úc theo dạng học bổng liên kết của chính phủ Việt Nam-Úc. Có một anh học luật so sánh ở Melbourne Uni, tức là một khoa rất kinh, nhưng tôi không hiểu sao lởm khởm như anh vẫn pass qua được. Anh có vợ ở nhà. Đến tối anh đi làm thêm, đẩy các sọt rau quả ở hàng rau đầu ngõ, thế nào quen với một em làm cùng. Tối về nghe tiếng phòng anh thủ thỉ.
Khi tôi chuyển tới thì nghe đâu một chị trong nhóm vừa chuyển ra. Chị ấy làm tiệc chia tay bên nhà mới, tôi ham vui nên cũng lẽo đẽo đi cùng. Ngồi chung tôi bần thần cả người vì chị ấy quá xinh. Lúc về tôi bảo mấy anh, uầy chị ấy xinh thật, bữa nào em lại kiếm cớ sang chơi. Các anh bảo: “Con đấy điêu, từng tin lời nó nói.” Thì thôi, nói vậy biết vậy. Ở đầu đường nhà chị chính là Hồng-Anh Thư-xã (hình như sắp đóng cửa), mà sách hơi đắt tôi chưa kịp mua cuốn nào.
Melbourne (Mèo buồn) là một trong những thành phố đẹp nhất thế giới. Người ta hay bảo ấn tượng về thành phố này là một ngày có đến bốn mùa. Có khi sáng lạnh căm căm nhưng chiều lại nắng và cuối giờ chiều trời đổ mưa ầm ầm. Có người khác đặc biệt thích văn hóa la cà cà phê ở đây. Nhưng tôi lại khác, tôi ấn tượng với thành phố này bởi nắng. Nắng chiếu xiên qua những lọn lá cây, qua những chóp mái nhà thờ, qua những tòa nhà kính. Nắng rải xuống thảm cỏ. Nắng đậu lên vai người. Nắng lan vào cái tờ mờ sáng và cái ươn ướt lạnh và cái âm ẩm rét của buổi chiều. Nắng rất nhiều vitamin.
4.
Quãng năm 2008, khi tôi còn đang là sinh viên năm nhất đại học ở Melbourne, tôi tham gia hằng tuần một nhóm trao đổi về Kinh thánh. Tôi không có đạo, mục đích của tôi khi đó chỉ đơn giản là gặp gỡ và kết bạn, và trong biên độ cho phép của trí tò mò, tìm hiểu thêm về cuộc đời Ki-tô và các tích trong Kinh thánh.
Nhóm chúng tôi khoảng mười lăm người, tuổi từ trẻ đến trung niên và thành phần sắc tộc khá đa dạng. Ngoài tôi là người Việt Nam, còn có một anh khác gốc Việt, một vài bạn gốc In-đô và Mã Lai, và vài người nữa là dân di cư từ Đông Timor (mặc dù đã ở Úc hơn chục năm rồi). Chúng tôi góp những món ăn chung, cùng nhau ca hát dưới tiếng đàn ghi ta và cùng nhau cầu nguyện. Chúng tôi luận giải ý nghĩa của những tích truyện trong Kinh thánh. Các câu chuyện đó, cũng như tên và gương mặt của những người bạn đó, đến nay tôi không còn nhớ rõ tường tận, nhưng có một dòng ký ức cũ thỉnh thoảng chảy về, đó là cái ga tàu tôi hay dừng chân để đi sang ngôi nhà nơi nhóm bạn gặp gỡ bên kia con đường.
Tôi còn nhớ rất rõ tên của ga tàu đó, vì chỉ có một chữ thôi: Auburn.
Bến Auburn cách bến của trường tôi, Hawthorn, đúng một bến. Ngày ấy tôi không biết Auburn hay Hawthorn nghĩa là gì. Phần đông chúng ta trong cuộc sống hàng ngày có lẽ hiếm bao giờ để ý, và cũng ít có nhu cầu phải biết tên những bến buýt, bến tàu thực sự nghĩa là gì. Có thể đơn giản chúng chỉ là tên những địa danh đã có sẵn (bến chợ An Đông, bến Đại học Quốc gia, ga Richmond, v.v.). Có thể đó là tên một danh nhân nào đó (tôi sống bốn năm ở Pháp đối diện một bến buýt tên Leclerc, mãi sau này mới biết đó là tên một vị tường). Chúng hẳn phải có ý nghĩa nào đó với người đặt tên, nhưng tầm hiểu biết hạn hẹp của chúng ta bảo rằng: để mặc đi, cũng chẳng có gì quan trọng.
Auburn là một chữ như vậy. Suốt những năm tháng lui tới bến đó, tôi không hề chú tâm. Mãi về sau, tôi mới biết "auburn" còn là tính từ chỉ một màu, có lẽ gần nhất trong tiếng Việt là ở giữa vàng và nâu. Nói đúng hơn, đó là một "sắc", hay một cảm nhận về màu. Người ta hay liên hệ sắc màu ấy với lá mùa thu. Các nhà quảng cáo thuốc nhuộm tóc gọi nó là "nâu ánh đỏ" hay "đỏ auburn". Tôi chỉ biết rằng cái tên ấy đẹp và kì diệu, vì chữ ấy mô tả thật cô đọng và súc tích lát cắt của ký ức tôi về bến tàu ấy.
Đường tàu chạy nằm ở con đê bên trên đầu người. Khách ra khỏi tàu muốn rời ga phải đi cầu thang đâm xuống ngõ hẻm có trần hình vòm bên dưới, đâm ra hai bên vuông góc với đường tàu. Những ngày trời có nắng, ánh nắng sẽ chiếu xiên xuống từ phía trên đường tàu. Đứng trước miệng hẻm thông, ta sẽ thấy bóng râm của đường tàu sáng dần từ dưới lên, cho đến ánh sáng lấp lánh – chỉ cần ta ngước mắt nhìn – của ánh nắng dọi từ bên kia sang bên này.
Trong ký ức tôi nó là một dài màu, không phải "vàng nâu", cũng không phải "nâu ánh đỏ" (vốn thường gắn liền với lá mùa thu). Nó là cảm giác về sự hòa tan của ánh nắng vào màu xanh trầm của lá cây, màu xám nâu của gò đất, màu đen bạc của thành đá ngõ vòm. Lơ lửng giữa không trung, ánh nắng tan vào cả cái lạnh và sự tĩnh lặng của buổi chiều (vào mùa nào không quan trọng, vì như đã nói, người ta bảo một ngày ở Melbourne có cả bốn mùa). Nó gần như là thứ màu không có thật, một thứ màu chỉ tồn tại trong ký ức.
***
Kể đến đây, tôi gần như hiểu ra được thất thoát là gì. Một thứ màu mà không có thật. Một thứ màu chỉ tồn tại trong ký ức. Thứ màu/sắc có tên gọi là “auburn.” Tôi đã cố gắng hết sức để cắt nghĩa nó, nhưng dường như là vô ích, vì đó là thứ màu gắn liền với nắng. Cũng giống như, có rất nhiều bài hát đã từng thử gọi tên nắng, nhưng nắng vẫn là một thứ ánh sáng trừu tượng. Nắng gắn với một vài phân mảnh cuộc đời tôi, nắng chiếu qua những chóp mái nhà thờ, nắng rải xuống thảm cỏ, nắng đổ xiên qua lùm cây cạnh đường tàu, trên chốc ngõ vòm của lối ra nhà ga xép xe lửa. Cái ga có tên Auburn.
Tôi rất muốn nhìn thấy lại nhà ga đó, nên tôi mượn những hình ảnh sau từ Google Maps.