Tôi nằm nhai xoài và đọc cuốn sách mới của Jenny Erpenbeck. Bên trái là đĩa xoài (giảm giá 0,66€ một trái nên tôi mua sáu trái). Ngày 21 bên tay phải tấm hình là ngày sách về tới nhà. Hơi ngại tí nhưng đành phải mua qua Amazon vì chỗ tôi đang “hard lockdown” nên không thể lượn lờ hiệu sách.
Jenny Erpenbeck là nhà văn xuất thân Đông Đức. Trong cuốn tập hợp tiểu luận và những bài phát biểu ngắn này, bà có kể lại quãng thời gian ngày bé sinh ra ở Đông Berlin. Kí ức xa nhất mà bà còn giữ được là về căn nhà cũ nằm kế bên bức tường (quãng năm 1970). Tất nhiên, những mảnh sót lại của bức tường Berlin mà chúng ta nhìn thấy giờ đây, người dân Đông Berlin hồi ấy không bao giờ hình dung ra được. Đối với họ, có khi nó chỉ là bức tường gạch kiểu như bao quanh một doanh trại quân đội. Nó là một khu vực, và bên trong là gì không ai biết. (Giống phim Dark nhỉ?)
Những năm 1980, khu vực bức tường Berlin sẽ trông như hình dưới đây. Từ phía Tây Berlin, nó đúng là một bức tường. Từ phía Đông Berlin, ban đầu là bức tường gạch, sau đó là hàng rào thép gai lưới điện (thứ gì chạm vào sẽ báo động đài kiểm soát và đèn pha bật sáng). Chưa hết, giả mà có qua được hàng rào này, nhiều khả năng bạn sẽ rơi tọt xuống hầm chông được giả trang như thảm cỏ—những hầm chông này có tên Stalin-Rase (bãi cỏ Stalin, trông như này). Chưa kể bạn sẽ bị đòm trong hai nốt nhạc. Nếu muốn tìm hiểu tường tận hơn về khu vực bức tường, bạn có thể xem video ở đây.
Hơi lan man tí vì câu chuyện của Erpenbeck có liên quan nhiều đến sự secure: cảm giác an tâm, tự tại, vô lo nghĩ, đêm không phải mất ngủ vì mình vẫn còn có việc gì đó cần phải làm (kiểm tra khóa cửa, khóa bếp, tắt điện thoại, đặt điện thoại cách chỗ ngủ hai mét, bật máy tạo ẩm cho con, etc.). Và chỗ an toàn nhất lại chính là nơi chốn tuổi thơ của bà.
Đông Berlin. Một chỗ mà không ai tin được. Một chỗ vốn là ông tổ của nghề nghe lén (ai muốn xem lại The Lives of Others không?) Một chỗ không đâu là không có tai mắt của mật vụ Stasi (cuốn The File: A Personal History của Timothy Garton Ash). Một chỗ mà ai cũng tìm mọi cách để vượt sang phía bên kia (series truyền hình Deutschland 83). Có vẻ như trái ngược với những gì chúng ta đã từng được nghe, xem, đọc, hay là được truyền thông phe tư bản bơm thổi. Nhưng đó đích thị lại là chốn an toàn nhất—đối với một đứa trẻ.
Bài mở đầu trong tập ghi chép bắt đầu bằng đoạn sau đây:
“Không ở đâu tốt hơn cho một đứa trẻ lớn lên bằng (những) chỗ tận cùng của trái đất.”
Ở đây Erpenbeck kể về căn hộ đầu tiên bà ở, hoặc đúng hơn là nơi xa nhất mà ký ức bà còn lưu giữ—về nhà mình. Nhà bà ở trong ngõ cụt, mà ngõ cụt lại còn gần kế bức tường. Bọn trộm hay bè lũ lưu manh họa có điên với vác thân vào đấy (không kể đến phường chích choác). Những ai từng ở trong ngõ/ ngách, hay hẻm, đều đủ hiểu: vào ngõ cụt thì chạy đi đâu? Và bọn con trai cũng rất đủ hiểu: ngõ cụt, lại còn trải nhựa (asphalt) nữa, là nơi số dzách để đá banh. Vì đỡ phải đi lượm. Và đánh cầu lông. Và nhảy dây. Và… và….
Nghĩ tới nơi an toàn nhất để một đứa trẻ lớn lên, một nơi ở chỗ tận cùng của trái đất, tôi không khỏi liên tưởng tới Việt Nam. Đơn giản vì cả hai đều theo mô hình xã hội chủ nghĩa. Và từng có một thời huyên náo về chuyện Việt Nam lọt vào tốp những nước hạnh phúc nhất thế giới.
Khi ta nói,
“Đông Berlin/ Việt Nam là một trong những nơi an toàn nhất để một đứa trẻ lớn lên”
trước tiên đó là một ý tưởng. Một ý thì trước tiên không phải là fact. Đó là một cách nghĩ, và cách nghĩ đó trình bày một hiện thực khách quan được người nói bắt gặp, hay tóm lấy, sau khi họ đã trải qua. “Bắt gặp” hay “tóm lấy” vì muốn có ý tưởng thì phải dùng sức chứ đâu phải tự dưng mà có (giống quả táo Newton và trọng lực í) “Khách quan” vì ý tưởng đó bám lấy một khách thể (object)—khách thể đó là Đông Berlin/ Việt Nam.
Nhưng khi tôi bật ra câu nói này cho những người thân thuộc với Đông Berlin/ Việt Nam, những người có hoàn cảnh hoặc kinh nghiệm tương đồng với Erpenbeck, khiến cho họ phải suy ngẫm, khiến cho họ cảm thấy rằng điều đó có thể đúng hoặc sai với họ, thì câu nói hay nhận định này, từ ý đã trở thành thứ gì đó mang một “mùi”[1], một tình cảm hay cảm giác. Đó có thể là sự hoài nhớ, nỗi đắng cay, sự thất vọng, hay một niềm hy vọng. Những nỗi niềm đó mang tính cá nhân, nhưng đều gắn với một “mùi”, và tất cả những ai từng có hoàn cảnh hay trải nghiệm tương đồng đều mang máng hiểu cái “mùi” đó là gì.
Tôi đã từng viết ở đâu đó rằng trường chuyên và thi học sinh giỏi ở Việt Nam là sản phẩm của một thời đã qua. Đã qua nghĩa là không còn phù hợp với hiện tại. Nhưng dầu sao, trường chuyên và các kỳ thi học sinh giỏi vẫn mang trong chúng một cái “mùi”, và những ai trải qua đều hiểu cái “mùi” ấy nghĩa là gì. Tức là, trong số chúng ta, mỗi người trưởng thành và được “tôi rèn” theo những cách khác nhau, thậm chí rất khác (bản thân/ gia đình/ xã hội), nhưng cái khung tôi rèn vẫn còn đó. (Vì thế khi nói “được học tập dưới mái trường xã hội chủ nghĩa” không phải là không có lý, vì ít nhất chúng ta có cùng một bộ sách giáo khoa.)
Khác với ý, cái “mùi” không trỏ đến đối tượng cụ thể nào cả, nó lưng lửng trong không trung nhưng ta vẫn cảm được rất rõ. (Như cách chúng ta cảm khi nghe lại một bài của Bằng Kiều, hay nghe tiếng mưa rơi trên mái tôn, hay chạm tay vào một con thạch sùng.) Với Erpenbeck, đó cũng đích thị là cái “mùi” theo nghĩa ấy—khi hoài nhớ về tuổi thơ, những năm còn rất nhỏ, có lẽ chỉ tầm hai, ba tuổi, và giờ đây nhìn lại bà cảm thấy rằng không nơi nào tốt hơn cho một đứa trẻ lớn lên cho bằng những chốn ở tận cùng trái đất.
Ta hiểu rằng Erpenbeck không chỉ nói đến căn nhà ở trong ngõ cụt, mà là Đông Berlin. Chính Berlin chứ đâu nữa—Nikita Khrushchev (tổng bí thư Liên Xô) từng gọi Berlin năm 1961 là nơi “nguy hiểm nhất trên trái đất” còn gì. Nhưng qua địa vị và con mắt của đứa trẻ, đó là nơi chúng có thể tự do tung tăng đá banh hay Rồng rắn lên mây mà không có xe cộ qua lại hay các thành phần dật dờ. Và lớn hơn chút nữa, đó là nơi không có Mcdonald’s, không có Zara, H&M và những mùa giảm giá, không ai biết đến iPhone, không có người bất mãn. Và tốt hơn nữa là không có email, điện thoại và laptop.
Nói đến đây tôi chợt nhớ ra một comment (mà tôi thấy vừa đúng vừa buồn cười) trên Financial Times trong một bài về mạng xã hội, sau vụ Twitter cấm cửa tài khoản Trump và gây ra sự lùm xùm về việc các mạng xã hội làm như thế có là “coi trời bằng vung” hay không. Bài ấy đây, và comment ấy như sau.
Tạm hết.
Bảo sao mà tôi đọc sách chậm thế. Có mỗi một câu ở trang đầu tiên mà đọc mãi chưa xong.
[1] “Mùi” này trong tiếng Pháp có từ na ná là sentiment, nhưng nói nghiêm ngặt hơn có lẽ là khái niệm affect của Deleuze và trước đó là Spinoza (affectus).