Thế giới của các nhà kinh tế là thế giới xô bồ, đầy tranh cãi và đầy lo âu về địa vị. Một thế giới bấp bênh và không chắc chắn bởi thiếu sự bảo chứng. Họ (đã/sẽ) nói rất nhiều đến những bài học mà không có bài học nào được rút ra cả chỉ một vài tích tắc sau khi họ nói. Tất cả đều trở nên bất an và, arguably, không được trang bị để bào chữa cho những khiếm khuyết của ngành mình, khi đối mặt với tương lai luôn bất định. Dĩ nhiên, không ai trong số họ cam tâm, nhưng biết sao được — bởi là nhà kinh tế họ, họ bị exposed, và vấn đề là họ có chấp nhận những khiếm khuyết đó và tiếp tục trong lặng lẽ (just move on!) hay không. Khiếm khuyết lớn nhất, có lẽ là hầu hết các nhà kinh tế đều không nhìn về cùng một hướng.
Nhà sử học và bài học của lịch sử
Điều này khác với những nhà sử học. Nhà sử học chắp ghép những mảnh vá để tạo thành một bức tranh, một lát cắt của quá khứ. Họ phân tích những tình huống ở trong đó để rút ra bài học cho tương lai và hiện tại. Họ có thể tranh cãi về tiểu tiết, nhưng cách hình dung về bức tranh nhìn chung khá nhất quán. (Ở đây, tôi không nhắc đến sử học bị xu hướng chính trị của một thời điểm khuynh loát, chẳng hạn Project 1619 — đây là dự án báo chí thiên về điều tra-lịch sử, hơn là một dự án sử học.)
Và vì, khá đông nhà sử học nhìn cùng về một hướng, hoặc là để tranh cãi về một điểm nào đó họ cần một khoảng cách từ vài đến chục năm để xuất bản một công trình chứng thực, mà nhiều khi các nhà sử học (kéo theo rất đông nhà bình luận lịch sử) rơi vào bẫy chủ quan. Khi Liên Xô và khối Đông Âu sụp đổ, nhiều người họ tin rằng lịch sử đã kết thúc. Khi Nga kéo quân tổng lực sang Ukraine ngày 24/2, hầu hết giới sử học phương Tây nghiên cứu về Đông Âu đều bất ngờ (Serhii Plokhy chẳng hạn).
Nhưng những kết quả mà ngành của họ đạt được từ trước thời điểm đó đều có hiệu lực và được bảo chứng. Rằng, từ thời Sa hoàng đến thời Xô Viết và hậu Xô Viết, ý tưởng về một lịch sử Ukraine hoàn toàn độc lập luôn là cái gai trong mắt các nhà lãnh đạo Nga; rằng, đấy là nguy cơ cần phải dập ngay từ trong trứng nước. Rằng, đã là một sự thường lệ, một chính khách Nga/Liên Xô độc tài muốn bóp nghẹt văn hóa Ukraine để tạo ra một căn tính dân tộc đại Nga. Rằng, việc kiểm soát nền nông nghiệp Ukraine, một khu vực đất đai rộng lớn và màu mỡ ("black earth"), và qua đó gây ảnh hưởng về an ninh lương thực đến thế giới, không phải là ý tưởng gì mới — cả Stalin và Hitler đều từng muốn làm vậy.

Tim Snyder viết Tweet trên sau khi cuộc chiến Nga-Ukraine diễn ra hơn bốn tháng, nhưng ông đã viết rất nhiều về duy nhất điểm này (sự bóc lột “black earth”) trong vài cuốn sách xuất bản từ trước xung đột 2014. (Tôi rất recommend cuốn Black Earth; tuy xuất bản năm 2015 nhưng ta hiểu rằng ý tưởng và bản thảo đã thành hình từ ít nhất hai năm trước đó.) Sau khi cuộc chiến xảy ra, ông chỉ nhắc lại những điểm mình đã từng nhắc đến nhiều lần. (Đây là một bài nói chuyện từ 2017.)
Serhii Plokhy, người từng đào rất sâu vào lịch sử Ukraine qua cuốn The Gates of Europe, kể rằng cuộc chiến tổng lực của Putin hoàn toàn nằm ngoài dự đoán của ông. Sáng hôm sau khi biết tin, ông gọi điện ngay cho chị gái ở Zaporizhzhia, nơi ông lớn lên thời niên thiếu, để hỏi thăm. Zaporizhzhia còn chính là nơi đặt nhà máy điện hạt nhân lớn nhất châu Âu. Và trong khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962, thành phố Đông Nam Ukraine này chính là nơi đặt các nhà máy sản xuất đầu đạn. Thảm họa hạt nhân là chủ đề hai cuốn Chernobyl và Nuclear Folly của Plokhy. Sự bất cẩn của quân Nga khi xâm nhập vào khu nhà máy Chernobyl bị bỏ hoảng chính là vì tảng lờ những bài học lịch sử. Và Putin, một nhà “sử học” quan tâm đến các vùng lãnh thổ Đông Slave thời trung cổ, cụ thể là Kyivan Rus, đã ăn quả đắng, vừa vì nghiệp dư, vừa vì bỏ quên những bài học mà các nhà sử học ngoài Nga đã không ngừng nhắc lại.
Bài học của các kinh tế gia
Nhìn các nhà kinh tế học giai đoạn hậu Covid và lạm phát năm 2022, tôi lại nhớ đến poster phim Run Lola Run (1998). Nếu như Lola có 20 phút chạy bục mặt để đưa 100k mác Đức cho bạn trai, các nhà kinh tế có cuộc nước rút cả một đời để… bắt bong bóng.
Họ cứ chạy miết từ đề tài này đến đề tài khác, với một huyễn tưởng trong đầu rằng đó là những thứ mà các nhà kinh tế có thể giải quyết được, hoặc hơn, là những thứ mà họ sinh ra để giải quyết.
Adam Tooze, một nhà sử học mà tôi ngưỡng mộ (ông này cánh tả, ông là nhà sử học kinh tế nhưng phân tích của ông rất mạnh về xã hội học), đã vẽ lên một viễn cảnh bi đát, một khủng hoảng đa diện (poly-crisis) đang chờ những nhà kinh tế học giải quyết.

Rõ ràng, các kinh tế gia của ngày hôm nay dù muốn hay không muốn đều phải giải quyết rất nhiều thứ cùng một lúc. (Làm chúng ta nhớ ngay đến nghịch lý muôn thuở, classic, của ngân hàng trung ương là phải giải quyết cùng lúc ba vấn đề: lạm phát, thất nghiệp và nợ công.) Nhưng đồng thời, họ rất không cùng quan điểm, thậm chí khắc khẩu, về hầu như tất thảy mọi thứ.
Từ nửa cuối năm ngoái, lạm phát đã là vấn đề nóng hổi của giới kinh tế học; lý do thì khá rõ: các chính phủ phương Tây in tiền thả phanh để cứu trợ người dân và doanh nghiệp bị ảnh hưởng từ Covid. Isabella Weber, tác giả cuốn How China Escaped Shock Therapy, bàn đến chính sách về giá, và viết bài trên Guardian đề xuất rằng biện pháp kiểm soát giá có thể giúp kềm tỏa lạm phát. Bà nhắc lại cách làm của các nhà kinh tế Mỹ tìm cách ngăn lạm phát sau thế chiến II. (Tức là, hãy rút ra các bài học từ lịch sử!) Ngay sau đó Paul Krugman đăng Tweet chỉ trích, gọi bài báo này là "truly stupid". Và sau đó ông phải xin lỗi.

Khá đông nhà kinh tế không đồng tình với Weber. Andrew Follett là một, nhưng ông này đến từ National Review, một tờ gần như cực hữu. Weber là tả, Krugman là liberal, Guardian và New York Times đều thiên tả, mà nhận xét với nhau vô bổ như vậy. Đôi khi, thứ chia lìa các nhà kinh tế không chỉ là khung tư tưởng tả/hữu (như vốn dĩ thường hằng nó vẫn chia lìa), mà còn là khoảng cách thế hệ, địa vị, và đi cùng với nó là privilege. Krugman là một người giữ mục cho tờ báo hàng đầu, ông có giải Nobel, là giáo sư CUNY, và ông nghĩ mình có thể nói như vậy (“truly stupid”) với một đồng nghiệp nữ, chưa thực sự thành danh, chỉ là assistant prof, theo kiểu: “nó tuổi nào mà dám nói! đã vậy, còn thiếu kiến thức căn bản về kinh tế!”
Nếu bạn theo dõi newsletter của Noah Smith, có thể thấy, cũng như các nhà bình luận chính trị nước Mỹ và bản thân người Mỹ, các nhà kinh tế học ở thời poly-crisis như hiện nay bất đồng quan điểm về mọi thứ: về lạm phát (khỏi nói rồi!), về nhà nước phúc lợi, về thị trường nhà đất, về Bidenomics, về tương lai chủ nghĩa tư bản, và về chính raison d’être của ngành kinh tế học. Và đã từ lâu, tôi đã cảm thấy mình không thể đọc nổi các bình luận kinh tế trên NYTimes. Một thay thế của tôi là Financial Times (trung) và Project Syndicate (tả) cho báo ngày, và New Left Review (hơi cực tả hehe) cho tạp chí.
Và trong thế giới hỗn mang đó, trong bối cảnh đa-khủng hoảng của thời đại hôm nay, Thomas Piketty là tấm phao cứu đắm. Mọi thứ để cứu hình ảnh của các nhà kinh tế học đều có trong những cuốn sách của ông:
Piketty là nhà nghiên cứu hàng đầu (nói không ngoa!) về bất bình đẳng
Ông có nền tảng rất mạnh về xã hội học (người Pháp mà!). Một trong những thế mạnh của ông là thu thập được số liệu trải dài qua nhiều thế kỷ và qua nhiều nước, ít nhất là Anh, Pháp, Đức và Mỹ.
Ông hầu như không nhắc gì đến phụ nữ và gender (rất khôn!)
Ông progressive và khá gần với cực tả (cái này tôi đọc được!)
Ông lật lại Marx và đi beyond Marx (còn ai hữu ích hơn Marx để nghiệm lại thời đại này?)
Tính viết ngay về Piketty mà đoạn vào đề lung tung thế đấy. Bài tới, tôi sẽ viết về cách nhìn của Piketty về giải quyết bất bình đẳng: giải quyết vấn đề giữa thu nhập (income) và tài sản (asset), và giải thích vì sao tôi nghĩ ông có thế mạnh rất lớn về xã hội học (ông rà theo sự tăng trưởng (growth) của phương Tây qua nhiều thế kỷ và nhìn dưới lăng kính nhân khẩu học (demography)), và công cụ xã hội học là lý do chúng ta rất cần những explainer như Piketty và Tooze. Tôi sẽ bàn cụ thể tới cuốn sách Tư Bản Thế Kỷ 21. Nếu các bạn có cuốn sách trong tay và muốn đọc cùng, mời cho một like :)
Rồi dần dà, chúng ta sẽ đi tới Marx.