Như đã nói ở bài trước, thế giới của các kinh tế gia vốn xô bồ, biến động và đầy tranh cãi. Nghe có vẻ phản trực giác, nhưng để hiểu ý tưởng, ý đồ và lập luận của một nhà kinh tế, ta cần phải xét xem anh ta theo trường phái nào. Hãy dành một ít thời gian để tìm hiểu về khuynh hướng chính trị của Thomas Piketty. Năm 2017, tức là sau khi nổi danh với cuốn Tư bản thế kỷ 21 (in ở Pháp năm 2013), ông làm tham vấn kinh tế cho Benoît Hamon, một ứng viên trong cuộc bầu cử tổng thống Pháp. Trong cuộc chạy đua ở vòng 1 để chọn ra hai ứng viên, Hamon bị bỏ rất xa đằng sau bốn ứng viên dẫn đầu (trung, cực hữu, hữu và cực tả):

Nhìn vào màu sắc ở bảng trên ta sẽ thấy: Benoît Hamon là ứng viên của đảng Xã hội, còn Jean-Luc Mélenchon là tả dân túy (left-wing populist). Đảng Xã hội ở Pháp từng là đảng rất giàu truyền thống — họ từng có François Mitterrand (thắng cử 1981 và 1988), rồi François Hollande (2012), nên thất bại của Hamon đánh dấu một cú ngã khó có thể vực dậy. Ứng viên đảng này năm 2022, Anne Hidalgo, chỉ giành được 1.7% số phiếu ở vòng 1, còn thua xa cả Benoît Hamon năm năm trước đó. Cánh tả Pháp và cánh tả châu Âu dĩ nhiên đang (buộc phải) thay hình đổi dạng nếu vẫn còn muốn relevant ở thời điểm hiện tại, hãy nói đến điều đó sau; nhưng chính sách của đảng Xã hội khi Piketty đóng vai trò tham vấn kinh tế là gì?
Socialism của Piketty
Piketty là kinh tế gia hàng đầu thế giới về bất bình đẳng, như Ezra Klein, người giữ mục của NY Times nhận xét. Và bất bình đẳng (inequality) nằm trong chương trình nghị sự trọng tâm của đảng Xã hội đợt bầu cử 2017. Hamon và Piketty đề xuất đẩy lùi bất bình đẳng bằng những cách như đưa ra mức thu nhập cơ bản phổ quát (universal basic income, tức là một khoản cho bằng tiền mặt) cho tất cả công dân Pháp, tăng thuế doanh nghiệp… Piketty thực ra còn muốn đi xa hơn nữa với kế hoạch tái lập công bằng xã hội và tài khóa qua chính sách tái phân phối: đánh cao thuế tài sản, để 1% người giàu nhất phải đóng góp nhiều hơn. Hiểu nôm na là tái phân bổ tài sản — về mặt lý thuyết là làm được, nhưng biến nó thành mục tiêu chính trị thì hơi xa vời.
Vậy kế hoạch ấy về mặt lý thuyết là như thế nào?
Cả ba cuốn sách của Piketty được dịch sang thị trường tiếng Anh — Tư bản thế kỷ 21 (từ đây gọi tắt là Tư bản 21), Capital and Ideology (2019), và A Brief History of Equality (2021), đều xoay quanh ý tưởng chủ đạo của Piketty là làm giảm bất bình đẳng bằng cách tái phân phối tài sản. Tất nhiên, nói theo cách trên thì nhà kinh tế nào cũng nói được, nhưng mục tiêu của Piketty là đạt được participatory socialism: một mô hình dân chủ xã hội mà các tầng lớp bị gạt bên lề đời sống kinh tế (lớp người đông nhất nhưng giành tỉ trọng thấp nhất trong sở hữu tài sản) được trao cơ hội cất lên tiếng nói trong việc xây dựng xã hội và nhất là, việc làm chủ cuộc đời họ.
Được làm chủ, theo ý Piketty, tức là được tăng quyền ngã giá (bargaining power).
Bargaining power và việc làm chủ cuộc đời
Chúng ta hãy lui về hậu cảnh một chút xíu.
Ở lứa tuổi tôi ấy mà (cuối 198x), mỗi khi bạn bè cũ gặp lại có dịp tán nhảm, một đề tài hầu như không thể vắng bóng là thu nhập cá nhân. Người ta có thể không muốn nói thẳng ra thu nhập của tôi bao nhiêu, thu nhập của anh bao nhiêu; thường thì người ta sẽ nói bóng gió về thu nhập cao thì phải cao thế nào (hầu như không có điểm trần). Chẳng hạn, làm software engineer cho start up về crypto, thu nhập 8k mỗi tháng là chuyện thường, trả bằng USDT (tức không phải đóng thuế), được làm việc từ xa (tức là được làm nhiều việc một lúc). Hoặc chẳng hạn, tiến sĩ toán ở Mỹ về Vin Uni có thể được offer vài ba tỉ VND net mỗi năm, được giảm tiền mua nhà trong hệ thống Vin, con cái đi học ưu đãi trong “hệ sinh thái” ấy.
Và ta hẳn sẽ cảm giác rất rõ rằng mọi mối ưu phiền trong đời sống xã hội đều xoay quanh vấn đề thu nhập. Mọi người ám ảnh với thu nhập. Ám ảnh nhiều hơn so với ngày xưa. (Ngày xưa, một tháng lương mua được miếng đất, chẳng hạn, mà không ai thèm mua.) Và rằng, tiền trở thành trung tâm trong cuộc sống chúng ta khi mà, càng có tiền, chúng ta càng có khả năng ngã giá (bargaining power) với muôn mặt của đời sống.
Nói rõ hơn điểm này.
Người thu nhập cao là người được chọn công việc mình làm; họ không buộc phải chấp nhận một công việc vắt kiệt sức lực như chạy Grab. Người thu nhập cao được chọn trường tốt cho con cái; họ có quyền không muốn con mình học trường làng nhàng. Bất bình đẳng hiểu theo nghĩa này là bất bình đẳng về cơ hội lựa chọn, bất bình đẳng về khả năng mưu cầu, mặc dù khả năng của người A và người B có thể xêm xêm nhau.
Nhưng nếu một người có thu nhập cao hơn (lương tăng từ 20 triệu tới 100 triệu net chẳng hạn), liệu họ có còn đối mặt với những mối ưu phiền về cơ hội lựa chọn và về khả năng mưu cầu hay không? Câu trả lời, theo tôi quan sát được, là vẫn có. Nếu như ông bà bô không để lại cho họ vài cái nhà, 100 triệu không là gì cả.
Trong nhóm FB Hanoi Parent Group, có người khảo sát học phí trường quốc tế ở khoảng một chục trường ở Hà Nội, và giá cho từng học sinh giao động từ 150 đến 750 triệu một năm. Tức là một gia đình hai vợ chồng elite, tổng thu nhập 200 triệu một tháng, nuôi hai đứa con học trường quốc tế và chỉ các khoản khác trong gia đình, cũng chỉ vừa đủ. Họ chưa chắc đã xông xênh. Họ chưa chắc đã xởi lởi và rộng lượng, bởi vì thu nhập của họ chỉ đủ cáng đáng cho một mưu cầu rất chính đáng là con cái được học trường “đàng hoàng” (đây là một phạm trù mơ hồ), và ngoài mưu cầu đó, họ chưa chắc đã khác hơn nhiều những người thu nhập chỉ bằng 1/10 họ. After all, you cannot really make choices!
Và “bargaining power” là điểm mấu chốt để Piketty bảo rằng, chúng ta đang quá quan tâm đến thu nhập (income) mà quên mất tài sản toàn bộ của một người (wealth).
Income vs wealth
Người có thu nhập cao được xã hội coi là giàu có (rich). Người giàu đi xe sang, coi tivi màn hình bự, mặc đồ hiệu, và muốn mua bao nhiêu sách cũng được (sách giờ đắt lắm!). Nhưng hình như không có từ tiếng Việt nào truyền tải được ý nghĩa của wealthy. Người wealthy dĩ nhiên cũng giàu, nhưng họ còn là người có khả năng lấy vốn đầu tư và sinh lợi nhuận. Họ liên tục làm tăng tài sản của mình và nhờ thế, làm tăng tài sản thừa kế của con cái. Họ có thể tằn tiệt, không ăn uống thừa mứa, không mặc đồ đi xe sang chảnh, không ở nhà cao cửa rộng, nhưng lại cứ vẫn là wealthy, thế mới tài!

Người giàu là người có đủ tiền để không phải làm việc, hoặc làm việc rất ít (cho vui!); họ có đủ tiền để sống thoải mái. Người wealthy dĩ nhiên vẫn sống thoải mái, nhưng họ luôn cần quan tâm làm sao tài sản của họ (wealth) không mất đi, ít nhất còn lại đến đời con, mà nếu tăng lên được đều đều thì càng tốt. Người ta hay nghĩ tới trúng số Vietlott để đổi đời, nhưng một cục tiền chỉ có thể làm người ta giàu lên trong một thời gian cố định, chứ không biến người ta thành wealthy. Để giữ tài sản, người ta phải chăm chút cho cục tiền đó, đem nó đầu tư chỗ này chỗ nọ và tạo một portfolio an toàn, sinh lời, và bền vững.
Tương tự, trúng vố Dogecoin chỉ là một may mắn thần sầu. Bạn phải đưa số tiền lời đó vào dòng lưu thông, nghĩa là bán và chuyển mục đích (rất khó nếu bạn không muốn mất một cục thuế), và đầu tư vào những món khác mà vẫn sinh lời (đôi khi lỗ sặc máu!).
Và Piketty lập luận rằng phân bổ lại wealth mới là mấu chốt để giảm bất bình đẳng. Và tổng tài sản mới là thứ ta cần nhìn vào khi đánh giá bất bình đẳng trong xã hội. Một ông lương 20 triệu có thể sống bớt ưu phiền hơn ông 200 triệu nếu như ông 20 triệu tài sản ròng dương, còn ông kia tài sản ròng âm (vì nợ/trả góp nhà/trả góp xe/trả góp iPhone) hoặc bằng không (không tiết kiệm được đồng nào).
Vì Tư bản 21 là cuốn sách dài (bản tiếng Anh bìa cứng gần 700 trang) nên nếu chỉ để nắm bắt các giải pháp của Piketty cho vấn đề bất bình đẳng, cụ thể là ông đề xuất đánh thuế cao lên tài sản có được từ thừa kế (inheritance tax) và cho người dân thu nhập phổ quát (universal income), bạn có thể đọc ba chương cuối. Để hiểu luận đề của Piketty về bất bình đẳng thì phức tạp hơn. Ông lập luận rằng, trong thế kỷ 20, tỉ suất sinh lời từ tư bản (return to capital) vượt qua mức độ tăng trưởng kinh tế (economic growth), và điều này làm tăng bất bình đẳng, do khối lượng tài sản nắm giữ của 1% giàu nhất ngày càng lớn.
Piketty bắt đầu cuốn Tư bản 21 bằng cách làm sáng tỏ những ảo tưởng về tăng trưởng: tăng trưởng kinh tế trong tương quan với tăng trưởng dân số là thế nào; vai trò không quan trọng lắm của lạm phát; tăng trưởng thể hiện qua con số vs mức sống tăng trong đời sống thường nhật; vai trò của sự phát triển công nghệ ở phương Tây. Vì thế “Phần một: Thu nhập và Tư bản”, bao gồm hai chương đầu, khá hữu ích cho ngay cả những ai không có nền tảng về kinh tế học, để hiểu rằng thế kỷ 18 và 19 không có nhiều biến chuyển trong cấu trúc phân bổ tài sản, nhưng thế kỷ 20, đặc biệt là sau Thế chiến thứ nhất, gây xáo động về mọi mặt.
Điểm này, trong văn chương cũng có những report tương tự, điển hình là cuốn The World of Yesterday của Stefan Zweig. Hay trong nghệ thuật, có thời kỳ gọi là Belle Époque, để chỉ những năm “tươi đẹp” từ 1870 đến trước Thế chiến thứ nhất.
Để kết lại bài này, có hai ý tưởng xuất phát từ hai chương đầu của Tư bản 21 tôi còn muốn đào sâu:
(1) liệu cú thay đổi đột ngột của thượng tầng và hạ tầng xã hội sau Thế chiến thứ nhất có phải là lý do khiến cho tiểu thuyết dần xa rời cách kể chuyện cổ điển, và các kết thúc của tiểu thuyết dần thay đổi theo hướng mở hơn, bất cần hơn, phóng khoáng hơn, vì… không có gì mãi mãi là chân lý? Piketty có nhắc thoáng qua về việc, vì thế kỷ 18 và 19 tăng trưởng chậm, nên những mô tả về giá trị đồng tiền và sự giàu có trong tiểu thuyết Jane Austen và Balzac, sau vài ba thế hệ vẫn còn đúng.
(2) tăng trưởng kinh tế quá nhanh và nóng có thể dẫn đến hậu quả, như Piketty đề cập, là áp lực cạnh tranh và kiếm tiền rất lớn đổ lên vai thế hệ sau. Chẳng hạn, bố mẹ dành dụm cho con 500 triệu, đến thế hệ con thì số tiền ấy chẳng ý nghĩa gì. Chưa kể, trong thế kỷ 20, tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng vốn tích lũy rất dễ không đi cùng, hoặc không bắt kịp phát triển công nghệ; điều này làm môi trường lao động hà khắc hơn.
Điểm này có soi tỏ gì cho quá trình sụp đổ của Liên Xô? Mô hình Liên Xô từng thực sự là một thiên đường cho người dân khối xã hội chủ nghĩa, và là hiện tượng về kinh tế (GDP thứ hai thế giới) với những ai ở khối tư bản; nhưng những con số khô khan về tăng trưởng kinh tế liệu có phải một cái bẫy? Lượng tích lũy vốn (capital) khổng lồ của Liên Xô, như biểu đồ dưới đây, nói lên điều gì, mà suy cho cùng thì sau năm 1985 nền kinh tế ấy vẫn sập (tức là bây giờ nhìn lại, chứ thời đó thì khó có ai đoán trước được)?
