Chúng ta thử xét qua một số “mệnh đề” do người nói sau:
(1) Tranh Lý Đợi rất xấu.
(2) Cuốn Con sẻ vàng đọc dở tệ.
(3) Phụ nữ ai cũng chọn làm single mum thì đàn ông trên thế gian trở thành cỗ máy chịch hết à.
Giả sử chúng ta rơi vào một cuộc tranh luận với ai đó phát biểu một trong ba mệnh đề trên, nhiều khả năng cuộc tranh luận sẽ rơi vào ngõ cụt: Tranh Lý Đợi xấu hay đẹp? Nếu xấu thì thế nào là xấu? Thế nào là một cuốn sách hay? Chúng ta cần tỉ lệ bao nhiêu phụ nữ chọn làm single mum thì tới cái ngưỡng mà đa số đàn ông trên thế gian trở thành máy chịch? Có phải giả định đầu tiên của người nói là single mum là không tốt, nên sự hiện diện của họ làm xói mòn sự cố kết của xã hội?
Rất nhiều khả năng là cãi nhau một hồi, ta sẽ thấy mọi lời tranh luận hóa ra đều vô nghĩa cả. Vì không chỉ có sự chênh nhau trong hệ giá trị giữa hai người tranh cãi, mà còn có sự chênh nhau trong hệ giá trị của bản thân người phát ngôn ba câu nói trên. Lý do đơn giản là vì: hai mệnh đề (1) và (2) thuộc phạm trù thẩm mỹ, và mệnh đề (3) thuộc phạm trù đạo đức. Cả hai đều là miền không giới hạn của sự mông lung.
Tiếp đến, ta xét qua một vài đối đáp với máy (tôi đã giới thiệu công cụ OpenAI chatbot ở bài trước):
Chatbot của OpenAI đưa ra một số khẳng định nhất quán, rằng nó:
Không mang niềm tin [về giá trị đúng sai, hay dở] với bất kỳ đề tài nào. Ở đây tôi hỏi OpenAI nghĩ sao về chiêm tinh đoán mộng.
Không thể đưa ra nhận định về cảm xúc hay bày tỏ thị hiếu cá nhân, vì nhiệm vụ của mình là cung cấp thông tin.
Được đào tạo dựa trên khối văn bản khổng lồ, và mục tiêu của sự đào tạo đó là xây dựng mối liên hệ giữa các khối nghĩa.
Những câu trả lời của OpenAI chatbot có thể generic, nhưng chúng không mông lung về mặt cách hiểu.
Thế nào là hay và dở?
Sau khi tọc mạch một hồi với OpenAI chatbot, tôi hiểu hơn một chút về cách cỗ máy này “suy nghĩ”. GRT-3 sẽ không bao giờ suy nghĩ theo kiểu “Bức tranh A đẹp hay xấu”. Nội hàm khái niệm “đẹp” và “xấu” luôn mang sự mông lung, và AI không bao giờ được dạy để bày tỏ sự mông lung. Sự mông lung của phát ngôn và tính bất định của cảm xúc là đặc tính của con người. Trong khi đó, xác suất một cụm từ A đi kèm với cụm từ B trong một văn bản luôn là con số cụ thể. Muốn không cụ thể cũng không được vì máy sẽ không thể chạy được bước kế tiếp.
Đánh giá một bức tranh đẹp hay xấu, một cuốn sách hay hay dở, luôn là một việc làm vô nghĩa. Người nói phơi bày cho người nghe một hiện trạng (rằng “tranh ấy xấu”), hiện trạng ấy vẫn có thể đúng hoặc không đúng (người nghe có thể đánh giá nhận định ấy là False, rằng “không, tranh ấy đẹp”), nhưng hiện trang ấy không được liên hệ tới sự thực về thế giới theo một cách có nghĩa. Những mệnh đề bàn đến tốt/xấu, hay/dở, giá trị/không giá trị… vì thế sẽ không nói lên được điều gì về thế giới khách quan.
Chúng ta lại xét tới lập luận kinh điển sau:
1. Nếu Chúa tồn tại thì mọi kết quả đều có nguyên nhân.
2. Chúa có tồn tại.
Kết luận từ 1. và 2.: Vì vậy, mọi kết quả đều có nguyên nhân.
Lập luận trên dĩ nhiên là lập luận có hiệu lực (valid). Biểu thị của nó dưới dạng logic hình thức như sau:
α ⊃ β
α
/ β
Nhưng lập luận và các mệnh đề trên không bổ túc cho cách hiểu của chúng ta về thế giới. Dưới cái nhìn nghiêm ngặt của Wittgenstein thì có lẽ mọi nhận định liên quan tới Chúa, về thẩm mỹ (xấu/đẹp, hay/dở) hay đạo đức (single mum là không tốt) đều không nói lên điều gì về thế giới, và tốt hơn hết, là không nên được phát ngôn.
Cuối cuốn Tractatus là câu nói nổi tiếng:
Whereof one cannot speak, thereof one must be silent.
Như vậy, nếu như mọi người nói đều thỏa mãn điều kiện là anh ta phát ngôn nên những điều có ý nghĩa, thì (a) những suy nghĩ trong đầu chúng ta, (b) ngôn ngữ chúng ta nói, và (c) thế giới đều có chung hình thức hàm lý.1 Với Wittgenstein, khi đặt các từ vào trật tự thích hợp, tức ta có mệnh đề, thì mệnh đề ấy sẽ là tấm gương soi thế giới: cái câu ấy sẽ đưa ra một mô tả có nghĩa cho chúng ta về thế giới.
Với mệnh đề, “tranh ấy xấu”, chẳng hạn, dù rằng các từ được đặt vào trật tự đúng chỗ (đúng ngữ pháp tiếng Việt) nhưng nó chỉ bày ra một hiện trạng. Nó (cái mớ từ ấy) theo Wittgenstein thì không thể được nói ra, vì nó không chứa fact. Nó là những thứ kiểu “nói vậy biết vậy”, nó không mang giá trị nào ngoài giá trị kỳ ảo, nó làm cho ta sững sờ và run rẩy vì chạm tới địa hạt của sự “vô nghĩa”. Và dĩ nhiên, phạm vi của vô nghĩa là vô cực. Ta không thể phân tích những món vô nghĩa, vì có vô hạn cách để bóc tách chúng.
Vai trò của bảo chứng
Khi AI không thể đưa ra đánh giá thẩm mỹ nào về Van Gogh, nó bảo rằng theo thông tin mình có được thì Van Gogh là một trong những họa sĩ vĩ đại nhất mọi thơi đại và phong cách ông được rất nhiều người ngưỡng mộ (xem ở trên).
“Một trong những” là cách thức chúng ta tạo warrant (sự bảo đảm) trong diễn đạt. Ta không nói ai là họa sĩ vĩ đại nhất nước Nga, ai là nhà văn xuất sắc nhất Việt Nam; chúng thiếu bảo đảm về mẫu và về lượng. Ta lại càng không thể nói ai là người “ngang” nhất trong giới sử học, hay nhà văn nào “đắm đuối” nhất với phụ nữ; những câu như thế thiếu bảo đảm về thuật ngữ, hay nghĩa đen (literary warrant), vì thế nào là ngang, thế nào là đắm đuối?
Khối dự liệu của GPT-3 vì thế đã dạy chatbot này cách đặt ra các câu có nghĩa, tức là sắp xếp các khối thông tin có mối quan hệ thực chứng. Vì thực chứng nên các câu ấy có thể tranh cãi được. Như câu hỏi “bạn có tin vào chiêm tinh không” (xem phía trên), và OpenAI trả lời: một số người tin đó là khoa học, một số khác coi nó là phản khoa học vì môn này thiếu dữ liệu thực chứng (empirical evidence), và vì thế có tin vào chiêm tinh hay không thuộc về thị hiếu và niềm tin cá nhân.
Việc đưa ra các câu có thể tranh cãi được, nhờ chúng chứa đựng các khối thông tin có mối quan hệ thực chứng, là lý do tôi tin rằng AI có thể thực sự cạnh tranh với ngành công nghiệp viết luận, ngành viết quảng cáo (copywriting), ngành bán hàng (sales) và kinh doanh đa cấp, và cao hơn là ngành viết lời bài hát2 và ngành phê bình nghệ thuật… những ngành sản sinh ra những thứ khó có thể tranh cãi, kiểu “nói vậy biết vậy”, cãi làm gì tốn nước bọt.
Ví dụ cụ thế tôi có ở đây là bìa 4 cuốn Elizabeth Finch của Julian Barnes. Họ trích lời ca ngợi của David Bowie như sau: “Tôi rất thích Stephen King. Đọc vãi cả đái. Nhưng tôi thực sự cũng rất thích Julian Barnes, đích thực là một thế giới khác.”
Tell me. What does it really mean?
Đi tìm sự bảo chứng luôn là cách vận hành của ngành xuất bản.3 Đi tìm sự bảo chứng cũng luôn là cách vận hành của các công nghiệp tạo sinh ra “giá trị” dựa vào một khung đạo đức hay thẩm mỹ nào đó.
Cả hai địa hạt thẩm mỹ và đạo đức (như ba mệnh đề ở đầu bài rơi vào) đều chứa đựng những thứ không thể tranh cãi được. Việc áp dụng lăng kính của Tractatus (tôi chỉ có thể nói mình hiểu theo cách rất giản đơn) vào phân định tính có nghĩa và sự mông lung của cái “người nói” lẫn cái “máy nói” cho tôi thấy việc cần phải quay trở lại Vienna Circle và trường phái thực chứng logic (logical positivism), vì phái này đặt trọng tâm vào làm sao có thể có những sắp đặt có nghĩa, có thể chứng minh hoặc chứng thực được.
AI đang làm tốt hơn bao giờ hết việc tạo ra những sắp đặt có nghĩa, với tốc độ tính bằng giây. Lật lại thực chứng logic sẽ là cách hiệu quả (mà không cần phải invent the wheel) giúp ta hiểu về khả năng AI có thể làm được và viễn cảnh thực sự u ám mà các nhóm lao động lành nghề đang đối mặt.
Ta không nhất thiết phải sợ. Ta chỉ cần biết về những giới hạn của mình.
Ở đây tôi dịch logic là hàm lý chứ không phải luận lý, vì trước tiên và tiên quyết, logic nghĩa là bao hàm cái lý, còn việc “luận” (tranh luận, biện luận) và các phương pháp của "luận" như quy nạp (induction), diễn dịch (deduction), diễn giải (abduction) là các hoạt động phát sinh của người làm logic.
Một dấu hiệu cho thấy công nghệ AI có thể sẽ làm mưa làm gió công nghiệp lời bài hát là khi ta nghe thấy nhà phê bình nghệ thuật nào đó nói rằng ca từ Trịnh rất “Trịnh” và ta tự hỏi, liệu rất “Trịnh” còn có ý nghĩa nào khác ngoài rất “mông lung”.
Một giai thoại là Wittgenstein hoàn thành bản thảo Tractatus năm 1918, nhưng chỉ đến năm 1921 bản tiếng Đức mới được in, sau khi Bertrand Russell đồng ý viết lời giới thiệu [cần sự bảo chứng], mặc dầu sau đó Wittgenstein nói với bạn bè mình rằng Russell chẳng hiểu gì cả