Việc lạm dụng quá nhiều từ Hán Việt trong “ngôn ngữ văn bản”, khiến nó ngày càng xa rời với ngôn ngữ thường ngày, có thể dẫn tới một vài tai nạn lệch pha trong sự hiểu. Bàn về ngôn ngữ tác động lên ý thức con người, không gì thực tiễn hơn là lấy ví dụ trong mảng giáo dục. Và vì mảnh đất này quá màu mỡ, tôi sẽ chia loạt “ngôn ngữ và giáo dục” thành nhiều bài nhỏ.
Ngày 20 tháng 11 vẫn được gọi là “ngày nhà giáo Việt Nam”. Nhưng ở các vị trí cần sự mỹ miều, ngày này sẽ được gọi là “Ngày Hiến chương Nhà giáo Việt Nam”, ngày “Quốc tế Hiến chương các nhà giáo” hay là ngày “hiến chương Nhà giáo” [để ý cách viết hoa vô tội vạ]. Việc lạm dụng từ Hán Việt trong ngày này được đẩy lên một mức phi thường. Các tầng lớp lãnh đạo nhất thiết phải gửi tới các thầy cô giáo “lời tri ân với tất cả lòng chân thành và kính trọng” [phút 0:10 đến 0:22]. Tri, ân, chân, thành, kính, trọng, tất cả đều là những “kính ngữ”, có cần mật độ từ ngữ mỹ miều dày đến như vậy trong một câu?
Một phần lý do nằm ở khía cạnh “lễ” của ngày này. Bước vào một ngôi trường tiểu học, nhiều khả năng chúng ta sẽ thấy câu khẩu hiệu được đặt ở vị trí trang trọng nhất: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Trước tiên phải học lễ nghĩa, sau đấy mới học văn chương và kiến thức. Và ngày 20/11 được xem là ngày “lễ” của các thầy cô: các thế hệ học trò bày tỏ lòng “tri ân”, các tầng lớp trong xã hội (vì nói rộng ra ai cũng từng là học trò) vinh danh nghề thầy giáo. Các hoạt động của mặt “lễ” này không đi theo một cấu trúc hay trật tự cụ thể nào cả, mà chỉ cần đáp ứng sự đầy và đủ (cũng giống như “lễ” thông thường phải có mâm quả và khấn thì phải đủ ý): các tiết mục văn nghệ, tặng hoa, tặng quà, tặng thiệp, những bài ngợi ca trên báo chí, phát biểu của đủ thành phần (lãnh đạo trường, hội phụ huynh, ban cán sự lớp). Nếu nói về “lễ” trong nhà trường và sự “lễ phép” của một người học sinh, văn hóa người Việt chịu ảnh hưởng của Khổng giáo xem nặng “đạo thầy trò”, và kính trọng thầy cô là điều đầu tiên và quan trọng nhất cần phải học.
Khía cạnh “lễ” này được bổ túc bằng một loạt những từ ngữ trang trọng nhất, những từ Hán Việt mà nếu tách ra đơn lẽ hoàn toàn có thể xuất hiện trên tranh viết/vẽ của nhà thư pháp ngồi ở Văn Miếu (Hà Nội) hay nhà Văn hóa Thanh niên (Sài Gòn) và sau đó nằm chiễm chệ trong thư phòng nào đó. Lễ không thể thiếu từ ngữ trang trọng. Ngôn từ tạo nên sức “căng” của lễ. Ngôn từ mỹ miều, nói theo cách vật lý, tạo nên một “trường” hút các luồng năng lượng xung quanh nó.
(phố ông đồ ở Nhà văn hóa Thanh niên, nguồn hình PLO)
Nhưng hai chữ “hiến chương” trong full-name của ngày nhà giáo có một cái gì đó sai sai. Chúng ta đều biết nó là từ Hán Việt, vì nghe lạ tai và hầu như không bao giờ dùng đến, nhưng nghĩa cụ thể là gì, có lẽ phần đông đều mù mờ. Đặt nó trong một cụm từ tiếng Việt, ngày “hiến chương các nhà giáo”, lẽ tự nhiên chúng ta sẽ có xu hướng hiểu “hiến chương” như một động từ, giống như thể vinh danh, hay biểu dương. Nhưng cách hiểu này là không đúng. “Hiến chương” là danh từ và nghĩa của nó hoàn toàn khác.
Hiểu đơn giản, “hiến” (宪) trong hiến pháp, “chương” (章) trong văn chương. Trong quan hệ quốc tế ta thường gặp cụm từ “Hiến chương Liên Hiệp Quốc”. Hiến chương theo nghĩa này là charter: một văn bản gồm nhiều điều, được kí kết giữa nhiều nước với mục đích là các nước ấy tôn trọng các nguyên tắc cơ bản và thể lệ chung trong một lĩnh vực nào đó. Và đó cũng là ý nghĩa của từ này trong bản “Hiến chương các nhà giáo” gồm 15 điều do Liên hiệp quốc tế các công đoàn giáo dục (gọi tắt là FISE, huy hiệu có hình bó đuốc cháy) soạn ra. Năm 1957, Công đoàn Giáo dục Việt Nam (Bắc Việt) cùng phái đoàn của 56 nước khác tham gia Hội nghị Quốc tế các nhà giáo tại Warsaw, và một trong những quyết định của hội nghị là chọn một ngày để vinh danh bản hiến chương này [“journée mondiale de la Charte des éducateurs”, dịch sát nghĩa là “ngày thế giới (của) Bản Hiến chương các nhà giáo”]. Theo bài báo này hội nghị 1957 chọn ngày 24 tháng 11 nhưng tôi chỉ có một bài để kiếm chứng nên không chắc.
Từ năm 1982 Việt Nam chọn 20/11 làm ngày lễ của các thầy cô. Nếu chỉ gọi ngày “nhà giáo Việt Nam” thì không sao, nhưng vì cần liên đới đến bản hiến chương lịch sử để ngày này mang tầm ý nghĩa quốc tế (“ngàn dặm xa không ngăn anh em kết đoàn”) nên từ đó dẫn tới các cách gọi khác nhau của ngày này. Cái khó nằm ở (1) sự vênh giữa văn phạm tiếng Pháp và tiếng Việt (nhất là mạo từ de), và (2) sự xuất hiện của từ Hán Việt “hiến chương”. Thử xét vài lựa chọn:
ngày thế giới Hiến chương các nhà giáo”: hiểu theo tiếng Việt thì vào ngày này cả thế giới (chủ từ) hiến chương (hành động?) các nhà giáo (túc từ). Có thể viết hoa từ “Hiến chương” để tách hai cụm danh từ: “ngày thế giới” và “(bản) Hiến chương các nhà giáo”, nhưng trong văn nói cách giải quyết này không để làm gì.
ngày Hiến chương nhà giáo Việt Nam: không đúng vì chả có cái hiến chương nào do Việt Nam soạn ra cả, chỉ có thể hiểu “Hiến chương nhà giáo” là một cụm danh từ, và “Việt Nam” là một cụm khác bổ túc cho “ngày”. Trong văn nói vấn đề này không được giải quyết.
ngày Quốc tế hiến chương các Nhà giáo: tương tự như lựa chọn đầu tiên, cộng thêm cách viết hoa vô tội vạ.
Cả ba lựa chọn trên đều không giải quyết được vấn đề trong ngôn ngữ nói, “hiến chương” vẫn được hiểu như một động từ. Tất nhiên, người ta không thể yêu cầu mọi người đều biết “hiến chương” nghĩa đúng là gì để có thể hiểu nó đúng vai trò là một danh từ. Cách giải quyết rốt ráo nhất là không dùng từ Hán Việt nếu không thực sự cần thiết và không tìm ra trật tự từ hợp lý theo đúng văn phạm tiếng Việt. Với những từ như hiến chương, tri ân, chân thành và kính trọng, có phải vì ngày 20/11 và các hình thức “lễ” mà chúng dần trở thành sáo ngữ: nghe thì kêu đấy nhưng nội hàm trống rỗng. Chúng đóng vai trò trang sức cho sự thánh hóa của nghề giáo.
Chúng ta nghĩ thế nào nếu (chỉ) trong quãng đời học phổ thông, một người học sinh trải qua 12 ngày này, (ít nhất) 12 lễ văn nghệ (việc chuẩn bị thường kéo dài cả tháng), không biết bao nhiêu tấm thiệp, bao nhiêu bó hoa đã được “tặng”, bao nhiêu “kính ngữ” đã được phát ngôn, bao nhiêu cuộc tụ tập trở thành gánh nặng? Khi “tặng” một vật gì đó, khi dành những lời hoa mỹ “tặng” một người nào đó, chúng ta có thực sự hiểu hành động đó đặt ra yêu cầu gì cho cả người tặng lẫn người được biếu/tặng? Bản thân người tặng và cả xã hội biếu tặng muốn gì từ điều đó? Và người được biếu/tặng có thoải mái không khi họ biết “nhận” là đồng ý lãnh lấy thiên chức cao quý xã hội ban cho, mà không nhận thì không được?
Trên hết, các biểu hiện về “lễ” của ngày này dần dần trở nên lạc lõng và sáo mòn trong xã hội hiện tại: những món “quà” của thời nay đã khác, ngôn ngữ thời nay đã khác, âm nhạc của giới trẻ thời nay đã khác với “văn nghệ” của thời xưa, vai trò của người dạy học trong thời đại của Zoom, Facebook và Whatsapp cùng khế ước xã hội của việc dạy-học đã khác, luật về quyền trẻ em cũng có đổi mới. Câu “tiên học lễ” có thể đúng hoặc không tùy cách nhìn, nhưng khía cạnh “lễ” của ngày 20/11 đặt nhiều gánh nặng lên vai người học cần phải thay đổi. Muốn biết, cứ hỏi các thầy cô nghĩ thế nào khi cứ đến ngày này lại phải ngồi dưới sân trường xem cho trọn các tiết mục văn nghệ của quý học trò, nào là hát rap, nào là các vũ điệu hiện đại, nào là các màn bày tỏ bản thân. Ổn thôi, nhưng thời nay đã có những platform khác dành cho việc đó. Và không nhất thiết phải tổ chức mỗi năm một lần. Cầm chiếc smartphone trên tay lướt qua những dòng feed trên Facebook, hẳn là trong khoảng bốn, năm tiếng đó sẽ có khoảnh khắc quý thầy cô tự hỏi: tại sao lại là mình? Why does it have to be me?