Khởi động từ năm ngoái, tôi bắt tay vào làm một việc mà tôi chưa từng nghĩ đến một lúc nào đó mình sẽ làm. Đấy là tôi dịch lại một tác phẩm đã có bản dịch trước đó, thậm chí, hình như hai, tôi không chắc. Ban đầu tôi chỉ nghĩ đơn giản là việc này thật phí thời gian. Sau đấy, được vài người bạn động viên, tôi đã suy nghĩ lại. Thời gian và công sức, trong bối cảnh thù lao nghề dịch bạc bẽo ở Việt Nam, không phải là điều tối quan trọng. Có lẽ cần thiết hơn là đặt mình, người dịch, trong tương quan với tác phẩm, và đặt nó, tác phẩm ấy, trong tương quan với bối cảnh cần một bản dịch mới ra đời.
Nếu đó là việc cần làm thì bắt tay vào làm. Chỉ vậy thôi.
Đến đầu năm nay tôi đã thực hiện xong. Một lúc khác tôi sẽ kể nhiều hơn về quá trình dịch. Ở đây tôi sẽ chỉ điểm qua một số góc nhìn mới mẻ mình có được, nhờ làm một việc mình không nghĩ rằng đến một lúc nào đó mình sẽ làm. Tôi sẽ thử giải thiêng một số myth (huyền thoại) vốn có về nghề dịch ở Việt Nam.
Myth 1: Các bản dịch “kinh điển” là ngọn núi không thể vượt qua
và các dịch giả lão làng là vô đối
Các bản dịch xuất sắc nhất cho đến nay, trong hình dung nói chung của độc giả, là từ các tác phẩm tiếng Nga và tiếng Pháp. Chiến tranh và hòa bình (Cao Xuân Hạo dịch), Tu viện thành Parme (Huỳnh Lý dịch), Không gia đình (nhiều người thích bản dịch của Hà Mai Anh hơn bản Huỳnh Lý), v.v. là những câu văn, câu chuyện, nếu đã gắn với người đọc từ thời niên thiếu thì khó mà dứt ra được, để được coi là… không hay. Chúng thường được coi là những bản dịch “kinh điển”. Kinh điển theo nghĩa, là chúng xuất sắc. Xuất sắc theo nghĩa, là người đọc hầu như không tìm thấy vết sạn nào trong tiếng Việt. Và kinh điển còn theo nghĩa, là chưa có bản dịch mới nào thay thế.
Nếu chưa có bản dịch nào thay thế, thì bản thân các bản dịch cũ vẫn luôn là kinh điển. Khi lứa người dịch mới coi chúng là kinh điển, chính họ cũng không “dám” dịch lại. Và một hậu quả của điều này, ta coi việc dịch lại là phí thời gian và công sức. Tại sao không dành công sức cho việc dịch một tác phẩm mới mẻ, đặt chân vào con đường mới, đối đầu với thử thách “mới”. Từ đó, cái gì “mới” trở thành myth, và cái gì “kinh điển” cũng là myth nốt.
Tương tự, khái niệm “xuất sắc” - một bản dịch hay, mượt mà, không thể chê được - chỉ mang tính tương đối. Các dịch giả ngày xưa, họ làm việc dịch vào một thời mà không ai khác ngoài họ (và trừ một số ít làm việc chuyên ngành) đủ vốn ngoại ngữ để đọc và hiểu hết tác phẩm gốc qua nguyên tác. Họ là cầu nối giữa các nền văn hóa, giữa các ngôn ngữ. Họ là thẩm quyền, là ngọn núi không thể vượt qua. Thời ngày xưa cũng không có Google, Wikipedia, Project Gutenberg, hay các nhóm Facebook, Reddit để thảo luận, tác phẩm dịch của họ giống như những hòn đảo đơn độc nằm giữa biển.
Ở đây, ta nên tránh khái quát hóa, khi coi những gì ngày xưa là xuất sắc thì ngày nay cần xem lại. Ta hãy nghĩ đơn giản, là đôi khi chúng ta cần bắc thêm những cây cầu.
Lấy ví dụ, Bùi Giáng luôn được xem là case kinh điển trong việc giữ văn bản dịch trung thành hết mức với ngôn ngữ đích. Đọc bản dịch của ông, ta thấy như ông đang lẩy thơ của chính mình (“lẩy” thơ, trên hết, chính là hành động xưng thẩm quyền), chứ không phải dịch những thơ của Hölderlin, Apollinaire, kịch Shakespeare hay Camus. Truyện vừa Sylvie của Gérard de Nerval, ông lấy tên là Mùi hương xuân sắc, nghe du dương quá đi chứ.
Nhưng cái xuất sắc ấy, cần đặt trong bối cảnh của một thời lấy ưu tiên là cách diễn đạt độc lập, trao cho bản dịch (thay mặt một dòng người) quyền tự chủ văn hóa, mang cho nó sự sống động tự thân, coi nó như một hiện thể (being) hoàn toàn mới mẻ. Không mới mẻ sao được, vì nếu không có các bản dịch đó, đại chúng khi đó sẽ không thể tiếp cận với Hölderlin, Apollinaire, hay Nerval theo cách dễ dàng, giống như người lữ khách ham tìm hiểu, đặt chân lên cây cầu để bước sang hòn đảo bên kia, chứ không cần phải mua vé máy bay bay sang tận châu Âu ngày đó (dĩ nhiên, người ta cũng không thể khám phá qua Youtube).
Một lần tôi muốn tra vài câu mở đầu trong bản dịch vở kịch Ngộ nhận (Le Malentendu) của Albert Camus như sau:
nhưng đành bỏ cuộc ngay từ trang đầu tiên trong bản dịch Bùi Giáng (bản An Tiêm 1967, sau này được NXB Văn nghệ in lại 2006), vì chịu, không thể biết câu nào tương ứng với câu nào. Chuyện ứng tác của các dịch giả hồi xưa không lạ, nhưng trên bìa nên ghi rõ là ứng tác, hoặc phóng tác. Ngày xưa việc này không phải ưu tiên. Chẳng hạn như Jane Eyre được Hoàng Hải Thủy dịch và phóng tác sang tiếng Việt năm 1963 lấy tên là Kiều Giang, ai cũng hiểu là phóng tác nhưng trên bìa ngoài lẫn bìa trong đều không ghi rõ.
Điều này không đồng nghĩa là cụ nào hồi trước dịch cũng ứng tác cả. Nó chỉ nói lên rằng việc dịch, so chiếu chính xác từng đoạn từng dòng không phải là mối ưu tiên chung thời ấy.
Quan trọng là nên có những bản dịch mới dịch sát hơn, chuẩn về mặt văn bản (đảm bảo không cắt câu nào); làm vậy rõ ràng có lợi hơn cho việc nghiên cứu tác phẩm, hoặc lấy dẫn chứng từ tác phẩm. Một nhà văn trẻ lấy cảm hứng từ kịch Ngộ nhận, nhưng dựa vào văn bản phóng tác và thiếu ngọn ngành, chính họ đang hiểu sai và ý tưởng của họ sẽ bị hiểu sai. Chính lớp người sáng tạo ấy đang chịu thiệt thòi. Giống như một học sinh chuyên văn trích dẫn câu “Hạnh phúc là đấu tranh” của Marx; giờ muốn tra khảo lại xem đúng ý ông Marx nói như thế nào là cả một vấn đề.
Và đối lại, đạo đức trích dẫn thời nay quy định, đã không trích thì thôi, còn nếu đã trích, ta đâu được quyền dùng sai ý tác giả.
Myth 2: Đã phê bình bản dịch thì phê kiểu gì cũng được, miễn là “đúng” và “trúng”
Cách đây chừng chục năm rộ lên trào lưu phê bình bản dịch. Giờ trên mạng lác đác vẫn còn. Người ta chụp lại một trang, một dòng, đăng lên Facebook, rồi “phê bình” cách dịch câu đó, dòng đó. Hoặc người ta lấy đúng một câu, một chữ không vừa ý trong bản dịch, đem so với cách mình nghĩ đáng lý phải là thế khác, rồi chê người dịch làm ẩu, hoặc mắc lỗi, hoặc dịch sai. Dịch ẩu, lỗi và sai được coi là kim bài miễn tử. Đã là lỗi rồi thì chửi vào mặt cũng đừng cãi. Đôi khi người chửi còn ẩn danh, hoặc lấy tên giả.
Làm như vậy, điều trước tiên là chơi không đẹp. Ai chơi không đẹp, thì một là ta tránh xa, hai là không nên đáp lời. Nhưng kẻ chơi không đẹp luôn có cái lợi thế dựa trên việc chơi không đẹp của mình. Vì họ coi những gì họ chỉ ra “sai” thì đối tượng buộc phải sai và họ là “đúng”; “sai” mà không phúc đáp (cúi đầu nhận lỗi, cám ơn rối rít) nghĩa là làm nghề không tử tế hoặc, nghiễm nhiên, là loser. Và họ có thể nói với đám đông của họ, “mọi người thấy chưa, tôi nói đúng, làm sao cãi được”. Thì đúng mà, chơi vậy sao cãi được.
Điều thứ hai, có lẽ là ngọn nguồn của điều thứ nhất, là những nhà phê bình tự tác ấy mang cái nhìn sai lệch về việc dịch. Dịch là quá trình. Cái “đạt” của dịch không thể đánh giá từ một vài con chữ nào đó. Quá trình ấy gắn với điều kiện trí óc của người dịch. Họ mang một triết lý dịch riêng. Họ sinh trưởng và lớn lên trong một địa phương có những đặc thù ngôn ngữ riêng biệt. Họ có quan niệm riêng về cái “đích” cần “đạt” được. Ấy là chưa nói tới điều kiện hậu cần bên ngoài, tôi sẽ nói sau, như thù lao dịch, sức ép từ các phía, chất lượng biên tập và đọc bông soát lỗi.
Ít người đặt câu hỏi, tại sao như thế là dịch sai, tại sao dùng từ như thế, tại sao lại sót lỗi vụn vặt như vậy (như lỗi typo), và lớn hơn, có lẽ chưa bao giờ xuất hiện, là câu hỏi về mối mâu thuẫn nội tại làm nảy sinh ra việc “phê bình” ấy: cách phê phán có thực sự cần thiết? mối hằn học ấy đến từ đâu? sao mấy cái đứa dịch ấy, nhìn cách dùng câu chữ là đã thấy đáng ghét? sao người ta bảo là chúng dịch hay, dịch tốt, thế mà… Bởi lẽ, suy cho cùng, việc tìm ra những điểm mình không hài lòng trong bản dịch là điều hết sức bình thường, nếu như ai đó tiếp cận bản dịch trong tâm thế mình sẽ tìm ra những điểm mình không hài lòng trong bản dịch.
Tôi còn nhớ trong một bài phê bình dịch thuật trên trang Tiền vệ, người phê bình (nặc danh) bảo phải dịch “apéritif” là món “đầu bữa” chứ không phải “khai vị”. Người đó hẳn đang nghĩ “khai vị” phải tương ứng với “starter”. Họ có lý ở mức độ nào đó nhưng, đồng thời, đâu có mấy ai dùng từ món “đầu bữa”. Ít nhất là tôi chưa bao giờ dùng hay thấy ai dùng trong ngôn ngữ hàng ngày. Thay vào đó, sẽ có ích hơn nếu người phê bình nói sâu hơn về quan niệm dịch thuật của họ, bàn cụ thể vì sao ngôn ngữ riêng của bản dịch chưa “tới”, chưa “đạt” và, nếu có thể và thực sự cần thiết, đảm đương một dự án để dịch lại.
Chữ “có thể” và “cần thiết” là chìa khóa ở đây. Đặt câu hỏi như thế, ta sẽ thấy rất nhiều thế giới và khả thể của việc dịch. Dịch là phóng ra một cách nhìn. Dịch không phải là thu nhỏ thành một con chữ. Dịch là một hành trình của viết và của cả sáng tạo. Làm gì có ai viết giống nhau, có ai sáng tạo giống nhau, có ai hiểu cùng một câu chữ giống nhau. Nhất là fiction.
Myth 3: Dịch là đam mê
Nói vĩ mô thế đủ rồi. Mình nhả ra một tí, khắc họa một cách vi mô cái nhìn của bản thân.
Không ít lần tôi và bạn bè bàn luận về thù lao bạc bẽo của người dịch ở Việt Nam. Nói tương đối, thù lao này thấp hơn khoảng 20-30 lần người làm nghề dịch ở Mỹ hay châu Âu. Thù lao so với cách đây 15 năm hầu như chỉ tăng khoảng 20%, một tỉ lệ nhỏ so với trượt giá. Tức là nghề dịch ngày càng thảm.
Hôm bữa tôi hỏi giá proofreading cho một paper viết bằng tiếng Anh. Giá họ offer là 40 euro cho 1.000 chữ. Một triệu đồng cho 1.000 chữ, chỉ cho việc đọc proof. Ai đã từng dịch sách sẽ biết rằng để bản dịch của mình ít lỗi nhất có thể, trong phạm vi có thể kiểm soát, khi dịch xong cần đọc soát lỗi lại ít nhất hai lần. Lần thứ nhất đóng vai biên tập, lần thứ hai đóng vai đọc bông.
Ấy là chưa kể đến các điều kiện hậu cần. Có lần bên NXB gửi lại cho tôi bản biên tập. Biên tập viên khi sửa không dùng tracked change trong Word, sửa ở đâu tôi còn không biết. Nhưng để cẩn thận thì (thở dài một cái) mình vẫn nên xem lại. Đọc lại tôi mới biết biên tập viên đã sửa sai một số chỗ, tức là họ edit chỗ dịch đúng thành sai, thế là tôi lại phải soát lại bản gốc từ đầu, toét mắt đúng nghĩa đen. Nhưng nếu mình không làm việc đó thì, đúng nghĩa đen, không ai có thể làm, vì chỉ có mình mới hiểu đúng sắc thái của câu văn, của chữ theo đúng tinh thần chung của một dự án cụ thể là tác phẩm đó. Thù lao không ai trả thêm.
Có người bảo những ai làm việc dịch, làm điều đó vì đam mê. Nghĩ kĩ, tôi không nghĩ đó chính xác là đam mê. Khi có kinh nghiệm với những việc này ở mức độ nào đó, nó đúng hơn là sự gắn bó. Gắn bó với một cách soi rọi, một cách phóng to những điều mà chỉ mình có thể làm, theo cách của riêng mình. Giống như birdwatching, đi vào rừng và ngắm những con chim. Niềm đam mê dù sao cũng rất gần với những thứ trái ngược với nó: nỗi ghét bỏ đến từ sự khao khát. Trái lại, dịch với đồng lương rẻ mạt, thực ra gần với sự diệt dục. Thù lao thấp đến mức tốt hơn ta không nên nghĩ về nó.
Đồng thời, có những việc người ta cần làm, muốn làm, nhưng không có nghĩa việc ấy cần được đặt bên trong “sứ mệnh” ai đó phải làm. Sứ mệnh thuộc về các cụ dịch giả ngày xưa. Sứ mệnh gắn với sự tưởng thưởng xứng đáng. Còn việc dịch ngày nay, nếu làm túc tắc và cẩn trọng, thiên về nhạy cảm cá nhân hơn.
Thế nên, tôi cũng không biết cắt nghĩa myth này thế nào. Tôi chỉ cho là, với bản thân mình thì điều đó, sự đam mê, không hoàn toàn đúng. Đôi khi tôi nghĩ việc dịch giống như đi thiền hay tu tập ở Tây Tạng, xa lánh sự đời và diệt dục. Nó mang lại cho tôi nhiều hơn một thế giới. Nó làm mới lại cách tôi nhìn sự vật. Nó là một cuộc hành trình mà đến lúc nào đó mình mừng rằng mình đã thực hiện.
Cảm ơn bài viết của anh ạ, soi rọi cho em rất nhiều điều và cũng cho em nhiều động lực cùng an ủi. Một lần nữa cảm ơn anh.