Hôm bữa tôi apply một vị trí postdoc ở trường đại học Vienna. Dự án về an ninh không gian trong các dự án phóng tên lửa ở châu Âu; con nổi tiếng nhất là Ariane 5 (tên này chính là lấy từ nhân vật Ariadne với sợi chỉ đỏ trong thần thoại Hy Lạp). Có lần vợ tôi hỏi dự án này làm về cái gì, tôi bảo làm về tên lửa; thế là chán không hỏi nữa.
Rốt cục, dĩ nhiên tôi không đậu. Thế là tôi lôi cuốn này ra đọc: The Murder of Professor Schlick, cuốn tiểu sử về các triết gia tụ họp ở Vienna trước thế chiến thứ hai, tạo thành Vienna Circle ("Wiener Kreis”) và đặt nền móng cho logical empiricism (thực chứng logic). Cái tên “logical empiricism” đến năm 1931 mới có chỗ đứng trong Anh ngữ, từ bài báo của Blumberg và Feigl (Feigl là thành viên cốt cán của nhóm). Từ yếu tố “empiricism” có thể thấy Vienna Circle chịu ảnh hưởng từ David Hume, triết gia Scotland thế kỷ 18 và Auguste Comte triết gia Pháp thế kỷ 19, những người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “chủ nghĩa thực chứng” (và sau đó là Ernst Mach, nhà vật lý Áo lập tiền đề cho thuyết tương đối của Einstein).
Sách mô tả bối cảnh Vienna đầu thế kỷ 20, đặt giao thoa những cuộc đời, kể giai thoại về các nhà toán học, nhà logic học lỗi lạc người Đức và Áo, sự đụng chạm và khác biệt các tư tưởng của họ, cuộc di cư của các nhân vật này ra khỏi nước Áo Nazi, và sự lan tỏa tinh thần thực chứng logic sang giới triết học Anh-Mỹ. Sự thăng hoa của Vienna vào giai đoạn này không phải điều gì quá xa lạ. David Edmonds đưa ra một lý do (khác) có liên quan chặt chẽ đến sự giao lưu của Vienna Circle: các coffeehouse. Các triết gia của nhóm này thường lui tới những quán cà phê quen thuộc, ngồi ở những bàn quen thuộc, chờ các đồng nghiệp quen thuộc lui tới, và họ ngồi bàn luận cùng nhau những vấn đề thời sự, triết học, toán học, tôn giáo.
Các cuộc gặp gỡ trong quán cà phê khởi đầu từ rất sớm, vào quãng năm 1907, với Hans Hahn (nhà toán học, thầy của Kurt Gödel); rồi còn có Otto Neurath, khi ấy mới lấy bằng tiến sĩ ở Berlin, rồi Philipp Frank. Circle này được mở rộng khi Schlick được nhận vào biên chế ở trường Vienna, ghế giáo sư triết học tự nhiên (vị trí từng do Ernst Mach nắm giữ) vào năm 1922. Từ đó nhóm có các thành viên khác như Karl Menger (con trai nhà kinh tế trường phái Áo Carl Menger), Herbert Feigl, Friedrich Waismann, Rudolf Carnap, etc.
Những ai từng đến Vienna có lẽ sẽ thấy, những quán cà phê ở các quận trung tâm khá đa dạng. Một số có bàn đá cẩm thạch, ghế nệm bọc da hoặc vải nhung, và trần treo đèn chùm. Bánh ngọt rất ngon. Một số quán kiểu cũ phục vụ cà phê cùng với một ly nước. Báo chí (newspaper) nhiều thể loại, được xếp trên những chiếc giá đỡ bằng tre. Cái kiểu ngồi nhâm nhi cà phê, đọc báo, nói chuyện nhẩn nha được một vị khách nước ngoài mô tả như sau:
Bầu không khí ấy thu hút nhiều người trí thức, đặc biệt những người gốc Do Thái:
***
Tiêu đề của sách là The Rise and Fall of the Vienna Circle. Cần phải giải thích một chút về nhan đề chính. Moritz Schlick là nhà triết học ngôn ngữ xuất thân ở Berlin. Ông làm PhD về vật lý dưới sự hướng dẫn của Max Planck. Từ khi làm giáo sư ở đại học Vienna, ông đóng vai trò lớn trong việc kết nối các nhân vật chính của Vienna Circle trong các cuộc nhóm họp thường kỳ của nhóm. Tài tổ chức và quảng giao của Schlick giúp logical positivism thành hình và trở thành một trường phái, đối chọi với siêu hình học (metaphysics), vì nhóm này coi trên hết, các tuyên bố siêu hình học và mỹ học đều vô nghĩa, do không có cách nào chứng thực được chúng, cũng như không cách nào kiểm nghiệm là chúng đúng hay sai.
Nhóm Vienna Circle bị buộc phải giải thể năm 1934 giữa bầu không khí bài Do Thái ở Áo, mặc dù không phải nhân vật nào của nhóm cũng là Do Thái, chẳng hạn Schlick, Otto Neurath, Rudolf Carnap, Friedrich Waismann, hay Hans Hahn. Năm 1936, Moritz Schlick bị một học trò cũ tên Johann Nelböck sát hại. Vào một ngày tháng Sáu, sau khi rời khỏi căn hộ của mình, vị giáo sư bắt tram D, xuôi con dốc băng qua khu vườn và công viên Belvedere về phía trường đại học ở trung tâm Vienna. Tuyến đường này đặc biệt ngắn. Schlick đến vào khoảng 9 giờ 15 sáng.
Episode này đã trở nên nổi tiếng: Schlick bước lên cầu thang lớn ở lối vào chính trường đại học, qua cánh cổng sắt, xuống hành lang và rẽ phải lên cầu thang để đến phòng 41 nơi số đông sinh viên, như thường lệ, đã đợi sẵn. Ông đi ngang qua Nelböck. Nelböck lao tới trước Schlick, quay lại và bắn thẳng vào người thầy cũ từ khoảng cách chỉ một hoặc hai mét. Tài liệu của tòa án tiết lộ rằng Schlick bị trúng bốn viên đạn; hai viên đi thẳng vào tim. Nơi Schlick bị sát hại ngày nay gọi là Philosophenstiege (philosophers’ staircase).
Nelböck vốn có thần kinh không ổn định và nhiều lần trước đó đã stalk ông thầy cũ (ngồi vào các seminar để trêu người). Một số tờ báo Áo thời đó đã tin lời khai của Nelböck: rằng chủ nghĩa thực nghiệm là một triết học độc hại, chống tôn giáo, phản siêu hình. Đó là thứ triết học của người Do Thái, và giáo sư Schlick là biểu tượng của mọi thứ sai trái gắn liền với nó. Một bài báo còn đề xuất, cái chết của Schlick cũng có thể hữu ích cho việc tìm kiếm một giải pháp cho "Jewish Question".
***
Có nhiều episode rất đáng nhớ trong cuốn sách. Chẳng hạn chuyện nhiều người đã biết là Kurt Gödel (nhân vật đi dạo cùng Albert Einstein trong phim Oppenheimer), nhà toán học nổi tiếng nhất trong Vienna Circle, cuối đời chết vì biếng ăn. Ông này vốn dĩ bị một chứng tâm lý mà ngôn ngữ ngày nay gọi là OCD (theo nghĩa rộng): ông nhìn đâu cũng thấy âm mưu, và ăn gì cũng sợ bị đầu độc. Sau cái chết của người bạn thân là Schlick, và sau đó là nguy cơ bị đăng lính khi chiến tranh nổ ra (tháng 9 năm 1939), Gödel chủ tâm sang Mỹ và ở lại (dù vậy, có thể xếp Gödel vào dạng naïve, vì trong khi các đồng nghiệp ở Vienna Circle đã di cư từ trước đó, Gödel từng được mời sang Princeton thỉnh giảng năm 1933-1934 nhưng đến tận sự kiện Anschluss vẫn còn quay về Áo; xém hồn!).
Ở Mỹ, Gödel được nhận vào viện Institute for Advanced Study - một viện rất nổi tiếng, do Oppenheimer làm giám đốc từ năm 1947 đến 1966. Năm 1947, Gödel đi thi lấy quốc tịch Mỹ. Einstein hiểu rõ tính “thích ho hắng” của ông bạn, vì Gödel, nhà logic học lỗi lạc nhất thế kỷ 20, vẫn hay chỉ trích những lỗ hổng của hiến pháp Mỹ. Ông phê phán những lỗ hổng trong hiến pháp có thể biến Mỹ thành nước độc tài. Okay, thế là hai người bạn là Einstein và Oskar Morgenstern mới hộ tống Gödel vào tận phòng thi và nhắc bạn tém tém cái mồm lại. Nhưng đến lúc thi Gödel vẫn phải xỏ vài câu mới chịu được. Có lẽ nhờ sự có mặt của Einstein, cuối cùng giám khảo cho qua.
***
Một điểm trọng yếu trong tinh thần của Vienna Circle chính là verificationism, tức là yêu cầu phải xác thực và chứng thực một lập luận đến tận cùng, và để làm thế thì cần buộc phải đặt ra một tiêu chuẩn hay hệ tiêu chuẩn để đánh giá bất cứ lý thuyết, hệ thống hay lập luận nào là có ý nghĩa. Tất cả thành viên của nhóm đều coi nhẹ giá trị của siêu hình học (và ác cảm với tượng đài metaphysics thời bấy giờ là Heidegger). Chẳng hạn, một câu rất dớ dẩn như “Bề mặt mặt trăng toàn là yogurt” là sai nhưng có nghĩa vì nó có thể kiểm thử được. Còn một câu rất phổ quát như “Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi” hay “Khái Hưng là nhà văn xuất sắc nhất Việt Nam” không hẳn sai, cũng không hẳn đúng, nhưng vô nghĩa vì không có cách nào kiểm nghiệm.
Rudolf Carnap đóng vai trò chính trong việc hệ thống hóa nguyên tắc verification của Vienna Circle. Nhưng hãy nói về Carnap sau. Để hiểu hơn về nguyên tắc verification, và căn bản hơn là khả năng mà bất kỳ một thứ, một sự nào đó có thể verify được hay không, hay bàn một chút về một nhân vật khác không thuộc Vienna Circle, có ảnh hưởng từ nhóm nhưng sau này coi họ là “đối thủ”, một nhà triết học khoa học rất nổi tiếng thập niên 1950-1970, là Karl Popper.
Karl Popper là nhà triết học về khoa học hiếm hoi được phổ biến trong tiếng Việt (bên cạnh Thomas Kuhn hay du di một chút là Werner Heisenberg). Popper thời trẻ là một người Mác xít nhiệt thành. Cuốn Xã hội mở và những kẻ thù của nó1 được dịch sang tiếng Việt từ cách đây hai chục năm (song tôi nghĩ cần phải hiệu đính lại nhiều). Popper ban đầu có giao du với nhóm Vienna, sau này tách ra vì bất đồng quan điểm (và vì ngạo mạn nữa). Chính vì Popper sau này trở nên nổi tiếng và sống rất lâu (hơn phần lớn thành viên của nhóm) nên nhiều người coi Popper là người phổ biến các di sản của Vienna Circle, nhưng đọc sách ta sẽ thấy, nhiều thành viên trong nhóm bất đồng sâu sắc với Popper, đặc biệt là Carnap.
Ý tưởng của Popper nói tóm gọn là hoài nghi đến tận cùng. Một thí nghiệm cho ra kết quả đúng như phỏng đoán 1000 lần, ta cũng không thể nói đến lần 1001 nó ra kết quả đúng. Tức là đối với Popper, phép quy nạp hoàn toàn vô giá trị; hay nói cách khác, dùng quy nạp để chứng thực khoa học là không hữu lý.
Cách nhìn này nghe có vẻ đúng như áp dụng vào khoa học thực nghiệm rất annoying, vì đơn giản chúng ta có những fact (khỏi cần kiểm tra thêm lần thứ một triệu làm gì cho mất công), chẳng hạn, “hút thuốc lá dẫn đến ung thư phổi”. Chúng ta có xác suất và độ sai lệch, chẳng hạn tiêm vaccine Covid thì bao nhiêu triệu phần trăm là người được chích sẽ tèo, nhưng không có nghĩa rằng tiêm vaccine thì tèo và vaccine không có giá trị gì trong việc ngăn chặn dịch Covid. Rất nhiều nhánh xã hội học của triết học khoa học về sau này còn nhấn mạnh tính chủ quan của các phòng lab - tức là có những “good data” khi được các nhà khoa học trong giới đồng tình thì tạo được concensus và trở thành tri thức, còn bad data thì bị gạt sang bên không được nhắc lại (còn vì lý do funding nữa).
Nguyên tắc falsifiability của Popper - tức để có tính khoa học thì một thứ phải có tính “có thể bác bỏ được” thông qua kiểm thử - nghe thì có vẻ dễ, nhưng trong khoa học, không dễ để mọi giả thuyết đều được kiểm thử rốt ráo và đến tận cùng. Khi ta tuyên bố, “mọi con thiên nga đều màu trắng”, điều này kiểm thử được, vì nếu ta tìm được một con thiên nga đen thì tức là câu trên sai. Nhưng khi nói, “Liệu có thể có một vài con thiên nga đen?” thì rõ ràng, chỉ cần dùng common sense, không thể kiểm thử được vì mặc dù chưa có thiên nga đen nhưng việc có thể tìm thấy một con thiên nga đen nào đó là một cơ hội mở.
Vì thế Popper gặp nhiều chỉ trích là non nớt và cực đoan với chuyện thực hành khoa học2.
***
Về mặt trực giác, có thể nguyên tắc cứng nhắc của Popper không thể áp dụng với mọi loại khoa học, nhưng ông có lý cho sự cầu toàn của mình.
Bài học về “hoài nghi” của Popper làm tôi nhớ đến những năm phổ thông làm các bài toán quy nạp. Cho đến tận bây giờ tôi vẫn luôn hoài nghi về phép toán quy nạp. Làm sao có thể nói rằng, ta đặt vài con số bất kỳ vào một ẩn, để coi kết quả phương trình ấy dẫn ra một vài điểm trong một đường thẳng, một đường tròn, hình ê líp, thì có thể nói phương trình hay hàm ấy biểu diễn đường thẳng, đường tròn, hay hình ê líp? Tôi luôn cảm thấy không thoải mái với sự khiên cưỡng ấy. Với đường thẳng thì khá dễ, chỉ cần dùng đến ba trường hợp, nếu ba kết quả nằm trên cùng đường thẳng (tính tọa độ là xong, rất dễ) thì có thể nói thứ được biểu diễn là một đường thẳng - suy cho cùng, đó là nguyên tắc của hình học Euclid.
Vấn đề là ta không thể viện đến phép quy nạp trong toán phổ thông để kiểm thử một con số đủ lớn các trường hợp: thử mười lần, hai chục lần, một trăm lần ư? Rõ là không thể. Mà phải đủ lớn đến mức nào? Nói như Popper, dầu có test 999 lần, vẫn không thể nói trước lần thứ 1000 nó không đi lệch kết quả. Nhưng dĩ nhiên, trong phạm vi toán phổ thông, đề toán sẽ được ra ở mức độ kiểm thử được: như đường thẳng, parabol. Chứ hình con cua thì có quy nạp vào mắt.
Một lý do khác tôi không thoải mái với phép quy nạp là, làm sao ta có thể tầm soát được các ngoại lệ? Mọi thứ trong đời sống thực đều có thể có ngoại lệ. Ngay cả toán học, dầu khắt khe với những con số, vẫn có thể có ngoại lệ. Chỉ cần vài ví dụ về hàm số không liên tục tại một khoảng là thấy ngay. Một lượng vô hạn bài test có thể đúng vào một khoảng, nhưng ra ngoài khoảng đó là kết quả chệch sang hướng khác.
Như hàm số ở hình trên không liên tục khi x = 2. Với những hàm giun bò như vậy thì có mà quy nạp vào mắt!
Ý tưởng của Popper có thể tạm tóm tắt: xã hội chỉ có thể thực sự tiến bộ thông qua thử sai và social engineering. Cũng như lý thuyết khoa học có thể sai, không phải mọi chính sách của nhà nước đều hiệu quả. Một xã hội mở là xã hội có những giải pháp friendly (chẳng hạn, không bắt bớ!) và hợp pháp để dần dần thải loại các chính sách, hoặc các chính phủ vận hành thiếu hiệu quả. Link sách bản tiếng Việt (cần VPN).
Popper lấy bằng PhD về tâm lý học (chính Schlick là một người trong hội đồng) và đi luôn vào triết học khoa học; bản thân ông không xuất thân từ nhà khoa học thực nghiệm hay logic học thuần túy.