Ở bài trước tôi đã chỉ ra một vài cách thức mà thứ kiến thức “góp nhặt” có thể len lỏi và thâm nhập vào đời sống thường ngày của chúng ta, vốn dĩ ngày càng bị xâm chiếm bởi các tương tác ảo. Không khó để nhìn ra hiện tượng đó, một vài ví dụ:
Ai đó phàn nàn rằng em bé của họ ăn ngủ thất thường; ta sẽ lôi điện thoại ra, dạo một vòng các kênh Instagram về chăm em bé, và giới thiệu phương pháp EASY ta đã đọc ở đâu đó là bách chiến bách thắng
Ai đó nhắc đến việc một thành viên BTS được mời hát khai mạc World Cup, ta sẽ lôi điện thoại ra và tra thành viên đó là ai, có gossip gì, mặc dù ta không thực sự quan tâm đến bối cảnh chính trị hay xã hội đằng sau sự kiện ở Qatar
Ai đó hỏi mùa này xem cực quang ở châu Âu ở đâu; ta sẽ tra trong tích tắc và giới thiệu ngay một vài điểm đến, đồng thời lý giải vì sao đi săn cực quang rất khó, và ô nhiễm ánh sáng ở các thành phố là một phần lý do
Tất cả sự tìm tòi và lý giải trên đều là các hình thức của kiến thức “góp nhặt”: hoặc ta có thể bất chợt gặp ở đâu đó rồi nhưng không để tâm, hoặc ai đó nhắc đến và ta có thể tra nhờ máy tính trong tích tắc và lấy kiến thức đó về mình, nhưng sau đó cũng vì không để tâm nên ta quên mất béng đi và, suy cho cùng, ta cũng không có nhu cầu đào sâu vào những thứ ấy.
Công nghệ, máy tính và các công cụ số đã làm cho thứ kiến thức góp nhặt ấy trở thành thời thượng. Chúng rút ngắn “tuổi đời” của trí tò mò và sự quan tâm của ta đến mức tối thiểu (hai phút? ba phút?). Chúng bứng từng món dữ liệu về đối tượng ra khỏi sự tạo cảnh cục bộ, trong khi các dữ liệu ấy hoàn toàn phi-cấu trúc (unstructured), là những lát cắt rời rạc của hiện thực khách quan, rất khó để chắp nối và đôi khi không dính dáng gì đến nhau. Một ngày chúng ta thu thập hàng ngàn, hàng vạn món thông tin như vậy (BTS, World Cup, cực quang, EASY method…) và sang ngày hôm sau lại thêm một chùm các thông tin ngẫu nhiên như thế.1
Kết quả là cái gì chúng ta cũng biết và muốn có ý kiến (như trong nhân vật “thích ho hắng”) nhưng không có gì ta thực sự hiểu rõ và tường tận. (Ấy là chưa kể máy tính và các app điện thoại “vô tình” đọc được hành vi của ta và sẽ mớm cho ta những luồng thông tin mà ta có xu hướng quan tâm, ta lại càng bị nhốt sâu hơn vào phòng tiếng vọng của riêng mình.)
Tảng băng của tri thức hiện và tri thức ẩn
Hình dưới đây mô tả một cách đơn giản lý thuyết về tacit knowledge (tri thức ẩn) của Michael Polanyi. Tôi dùng hình có chữ tiếng Nhật để chúng ta dễ liên tưởng đến âm Hán Việt của thuật ngữ. Explicit knowledge được dịch là tri thức hình thức (形式知), còn tacit knowledge là tri thức ám mặc (暗黙知), hoặc âm mặc. Ám là mờ tối, bị ẩn đi, và còn có nghĩa là bí mật, bị giấu diếm (giống như trong từ “u ám”); mặc là im lặng, yên ắng.
Những thứ hiên ngang nằm trong phạm vi “cái gì cũng biết” của ta thực ra chỉ là những món kiến thức rải rác, bất chợt, những thông tin giải đáp khúc mắc tức thời, và là những thứ ta hoàn toàn ngạo nghễ phô bày dưới ánh mặt trời. Giả dụ như, tôi có thể áng chừng rằng nhóm những ngôi sao lớn ở World Cup kỳ này sẽ có tuổi già hơn so với những kỳ trước: Messy, Ronaldo, Modrić (còn Haaland mới 22 tuổi không tính vì Na Uy đã bị loại). Còn lý do đằng sau tôi không biết và gần như không quan tâm (vì dinh dưỡng thời nay tốt hơn, các siêu sao sống kỷ luật hơn, hay họ đều sắm máy làm đông tế bào?!)2 Tôi chỉ nhớ là mình bắt gặp chi tiết về độ tuổi trong một bài nào đó đã đọc của Simon Kuper. Sau vài cú google tôi đã tra ra đó là bài này.
Những mối quan tâm của ta, những gì ta thực sự tương tác trong công việc và sinh hoạt hàng ngày, những gì ta đã học và thực hành bền bỉ — chúng thuộc vào phần chìm của tảng băng. Vì ẩn đi, chúng không hiện ra dưới ánh mặt trời. Vì ẩn đi, ngay cả với chính bản thân ta, chúng rất khó để giải thích được cho ngọn ngành. Đôi khi chính ta còn không biết là mình sở hữu một “tảng” tri thức to lớn như thế. (Có vẻ là theo nguyên tắc vật lý thì phần chìm của tảng băng luôn lớn hơn phần nổi.)
Lý thuyết về tacit knowledge
Một trong những câu nói được trích dẫn nhiều nhất của Michael Polanyi3 là “we can know more than we can tell”. Chúng ta biết nhiều hơn là những gì ta có thể nói hay giải thích ra được. Tôi lấy chính câu này làm đề từ cho luận văn của tôi, trong đó tôi đi sâu vào các thao tác và ý nghĩ của những người làm back-end trong bảo tàng và thư viện, cụ thể là những người làm lưu trữ. Khi ta hỏi một người làm back-end rằng việc gì làm hao tổn sức lực của họ nhất, có lẽ phần đông sẽ trả lời đó là việc xử lý dữ liệu sao cho ngăn nắp và gọn gàng. Một việc rất bên lề -- dĩ nhiên không ai được trả lương để làm data cleaning toàn thời gian, nhưng nếu dữ liệu không gọn gàng, các công việc quan trọng khác sẽ bị trì hoãn và nói chung là, nó rất chướng.
Khi ta hỏi một người IT ở back-end hay data scientist rằng làm sao họ biết bắt đầu từ đâu với một mớ siêu dữ liệu (metadata) hổ lốn và đầy lỗi, có thể họ sẽ phải suy nghĩ rất lâu. Nhưng nếu quăng trực tiếp vào tay họ một mớ dữ liệu, họ sẽ bắt tay vào làm, phát hiện ra đâu ra những điểm yếu hay lỗ hổng, tự lập ra trong đầu các bước, rồi cứ làm tỉ mẩn như hàng trăm, hàng nghìn lần họ vẫn làm trong công việc. Đó là những thứ vô hình họ học được từ cách thực hành. Ta có thể coi đó là “craft”, giống như cách một người thợ mộc đóng bàn, ghế hay kệ, tủ, hay người thợ xây trộn hồ và trát vữa. Làm nhiều tay sẽ quen. “Tay quen” thuộc về tri thức cá nhân. Không ông đốc công nào có thể dạy cho lính mới “tay quen” là làm như thế nào.
Chữ “tacit” trong cách dùng của Polanyi mang nhiều sắc thái nghĩa: đó là những thứ không nói ra ngay được (vì nó chưa sắp xếp), hay không thể cắt nghĩa được (vì chính ta cũng không biết rõ là mình có nó), cũng không thể được truyền đạt dễ dàng từ người này sang người kia (có những thứ người trong ngành nói với nhau mới hiểu được). Nhà kinh tế học Friedrich Hayek từng dùng ý tưởng này để chỉ ra điểm yếu của nền kinh tế tập trung: khi ta muốn hoạch định tập trung thứ gì đó, nghĩa là ta muốn cào bằng mọi kiến thức và giá trị của mỗi cá nhân trong từng hoàn cảnh khu biệt; sự phân tích dựa trên đó chỉ là kiến thức “tổng quan” và vì thế chưa chắc mang nhiều giá trị.
Rồi cái gì cũng có thể kể được
Nếu áp dụng cái nhìn nhân học (anthropology) vào khái niệm tri thức ẩn của Polanyi, ta có thể lập luận hoặc tìm cách chứng tỏ được rằng: với những thứ ẩn đi, nếu dành đủ thời gian và sự để tâm, ta đều có thể khiến chúng được diễn tả bằng lời. Những thứ ẩn đi có thể mang nhiều sắc thái nghĩa pha trộn vào nhau, và nhiệm vụ của nhà nhân học, nếu nói một cách lý tưởng, là “cắt nghĩa”, là không để yên những gì bị ẩn đi tiếp tục bị ẩn đi. Đây cũng là lập luận của Tim Ingold khi ông viết chương “Telling by hand” trong cuốn Making: Anthropology, Archaeology, Art and Architecture (2013).
Theo lập luận của Ingole, khi Polanyi nói we can’t tell nghĩa là ta không thể diễn đạt những gì ta biết bằng những phát biểu có câu trúc, bằng cách diễn tả mạch lạc, bằng các ý cố kết với nhau; các yếu tố cấu thành “ý tưởng” đó, theo Polanyi, bị chìm và ẩn đi. Nhưng Ingold muốn lật lại ẩn dụ về tảng băng nói trên; ông cho rằng tri thức của cá nhân không bị khuất lấp đằng sau vùng tối của ý thức (tức là bị chìm xuống) mà có thể lơ lửng giữa vùng nói được và không nói được, và nó có thể du hành qua lại giữa hai vùng đó. Việc mở ra cái vùng tối đó là nhiệm vụ của người hỏi; nếu ta muốn hỏi và thực sự quan tâm đến vùng tối đó, ta sẽ tìm được cách mà thôi.
Dĩ nhiên, nói như vậy không phải để lật lại ý tưởng của Polanyi, vì trong câu của Polanyi dùng chữ “can”, tức là một khả năng của chủ thể. Chủ thể có thể không nói ra ngay được, nhưng không có nghĩa là người khác không thể nắm bắt được vùng ẩn đi của sự biết đó. Và góc nhìn của Ingold cũng gợi mở ra rằng, “tell” không nhất thiết phải là kể lại hay nói ra, mà có thể là những hình thức bày tỏ khác của sự tri nhận, chẳng hạn như viết cũng là một cách trình bày. “Viết” là muôn hình vạn dạng sự tỏa ra của “nghĩ”. Trong đầu ta xuất hiện một ý nào đó, khi viết ta triển khai nó ra, và đôi lúc việc viết đẩy cho ý đi theo những hướng nằm ngoài sự kiểm soát. (Đây còn là sự khác biệt giữa viết và nói.)4
Như vậy khái niệm tacit knowledge bắn cho chúng ta ám hiểu, rằng những gì chúng ta thực sự biết thuộc về địa hạt của tri thức ẩn. Tacit knowledge, hay tri thức ẩn, dặn dò chúng ta rằng, có khi sự lặng im mới là không gian của sự biết.5 Bản thân sự biết tuốt là hệ quả của cách chúng ta thể hiện mình biết tuốt: những cái biết hiển hiện là chóp của tảng băng, và chúng luôn dễ được phô bày. Google và chiếc điện thoại càng làm cho sự phô bày ấy dễ dàng hơn và đem lại cho sự phô bày ấy một "ép phê": chỉ trong một vài giây bạn có thể thâu nhặt được món tri thức mới (và chỉ trong vài chục phút bạn quên ngay tri thức ấy là gì.)
Ingold lại triển khai hình ảnh “telling by hand” để nhắc về tầm quan trọng của những thao tác gần gũi nhất với ta hàng ngày: cầm, nắm, kể, nói, đụng và chạm, v.v. Ẩn dụ về bàn tay, hay rộng hơn là các phương tiện của tri giác, hay các phương tiện để cắt nghĩa như nói và viết, muốn nói đến sự tương tác sâu hơn giữa chủ thể (chúng ta) và người, vật, hay hiện tượng ta muốn nắm bắt (biết). Ta biết gì về cực quang? Mười cú click chuột không cho ta biết gì về nó cả. Ta không biết gì về cực quang? Có lẽ ta biết nhiều về nó hơn là ta có thể chứng tỏ. Từ trong sâu thẳm, ta đã biết về sắc màu, bóng đêm và sự đẹp đẽ.
Có thể bạn không để ý, nhưng việc google và tra liên tục các thông tin như thế khiến trình duyệt web lưu lại rất nhiều các file rác và tốn bộ nhớ ổ cứng. Nếu dùng Windows, thỉnh thoảng bạn nên dùng chức năng Disk Clean-up để dọn dump files, cache… Một tháng bạn tốn vài Gigabyte file rác là chuyện bình thường.
Thiên hạ đồn rằng Erling Haaland sắm buồng liệu pháp áp lạnh (cryotherapy) trị giá 50.000 bảng.
Michael Polanyi (1891-1976): nhà khoa học Anh gốc Hung. Đừng nhầm với người anh của ông là Karl Polanyi (1886-1964), nhà nhân học kinh tế.
Phát ngôn bằng mồm không có được sự lưu loát và mẫu mực như khi viết. Có thể vì viết vận dụng nhiều năng lượng hơn, để góp các chữ thành ý và câu trôi chảy. Và có thể vì thế nên người ta hay dụng những hình tượng “thô” để chỉ việc nói: “mở mồm ra” là thế này thế kia, hay “ngậm cái mồm” lại… còn viết thì cùng lắm chỉ nói “viết lách như thế à”, hay “viết dở” thế — tức là người ta không có xu hướng làm phô hóa thao tác của sự viết.
Các nhà thiên văn học cổ đại từ lâu đã biết điều đó, họ quan sát bầu trời và nhận ra các cấu trúc; cấu trúc ấy chỉ hiện ra vào ban đêm chứ không xuất hiện vào ban ngày.