Sự bất định của ký ức
Chúng ta chống chọi sự bất định nhờ những lát cắt, nhờ việc lưu giữ những mảnh ghép
Một trong những phát minh tác động sâu rộng nhất đến ký ức như là một phần hành vi xã hội — ký ức cá nhân, ký ức văn hóa và cả ký ức tập thể — chính là chiếc máy ảnh cơ. Máy ảnh cơ là một phát minh thực sự đặc thù vì tính người thật việc thật của nó: chiếc máy “nói hộ” cách chúng ta lưu lại ký ức ở trong đầu. Những hình ảnh về sự kiện, con người và cảnh vật trong quá khứ hiện ra trong đầu ta không khác gì những tấm ảnh. Cách chúng ta “mở hộp” ký ức ở trong đầu, cách ta “nhớ lại”, không khác mấy so với cách người ta tạo ra những tấm ảnh: nhiếp ảnh gia nhấn nút chụp, hình ảnh đó được lưu vào trong phim, đến lượt người thợ ảnh rửa ảnh trong phòng tối, và sau cùng là những tấm ảnh được ta lưu lại trong album.
Chiếc máy ảnh cơ và những tấm ảnh sản sinh từ đó “nói hộ” cho chúng ta ký ức về một thời, hai mươi hoặc ba mươi năm trước. Chúng ta chỉ có thể gợi lại những thời điểm đó trong đầu mình qua một phương tiện tôi tạm gọi là mùi: mùi của quá khứ. Mùi không chỉ là thứ ta cảm nhận được từ mũi. Mùi còn liên hệ tới các giác quan khác: ta hình dung được những âm thanh, phông màu, sự chung đụng; ta liên hệ tới những mối ám ảnh và đặc trưng riêng của cái thời ấy. Mùi như là một “hệ thống” linh động: không cố định nhưng cố kết. Ta có thể không xác định rõ thời điểm hay tọa độ xảy ra những tình huống bên trong đó, nhưng ta đến được gần cái điểm mà ta có thể chạm vào nó, nhào nặn và tạo hình nó. Gần giống như một cái gối ôm.
Chiếc máy ảnh cơ rất hữu ích với chúng ta trong việc: nó tạo ra những lát cắt, các góc cạnh của thời nào đó thuộc về quá khứ. Các mảnh ghép ấy có thể được hiển thị trước mắt chúng ta, trắng đen hoặc đủ màu sắc. Và chắp ghép một cơ số các mảnh ấy lại, ta có thể có hình dung tương đối chính xác về cái mùi ấy là như nào. Giống như có tọa độ x, y, z ta có thể xác định được vị trí một điểm trong không gian ba chiều. Giống như cho các số liệu đầu vào, ta có thể dùng phép hồi quy (regression) để đưa ra một mô hình gần chính xác; ta có thể dùng chính “mô hình” ấy để ước lượng những sự kiện khác trong cùng hệ thống mùi.
Như tôi đã nhận xét trong loạt bài về mô hình (1), (2) và (3), mô hình được sinh ra là để con người dự trù sự hỗn độn, để đối mặt với sự bất định trong phạm vi kiểm soát nhất định.
mỗi một nhà khoa học không phải ai cũng có lộ trình cụ thể và rõ ràng […] tất cả họ đều đối mặt với một liên hoàn các sự kiện không lường trước, hỗn độn và bất định. Họ phải lần dò qua sự hỗn độn và bất định đó, bằng những công cụ họ có trong tay, trong những hoàn cảnh cụ thể.
Theo cách hiểu đó, một lộ trình của nhà khoa học thiết kế ra mô hình không khác mấy so với cách chúng ta tạo ra một album ảnh. Ta chụp các khung hình và ta giữ lại những tấm ảnh để không làm lu mờ đi ký ức. Ký ức là một phần của con người, giống như thớ cơ và thớ thịt, nó có thể giảm bớt hiệu năng theo thời gian. Các nhà khoa học về ký ức — nếu như chúng ta thực sự lưu tâm đến ký ức như là một khoa học — từ lâu đã đi đến kết quả là bất cứ ai đều có thể mang những ký ức không chính xác.1 Việc những người thân cãi nhau rằng tình huống nào đó xảy ra thế này, hay thế nọ, là chuyện như cơm bữa.
Một vật nhỏ như chiếc máy ảnh cơ giúp ta đối mặt với sự bất định của ký ức mà không lo sợ. Lo sợ như cách những con ngựa bị thương ở một chân: chủ của chúng còn cách nào khác hơn là cho chúng một viên đạn tiễn biệt; vì còn có gì đáng thương hơn một con ngựa bị vết thương không thể lành ở chân, chúng còn không thể có một giấc ngủ yên. Ta lo sợ khi ký ức cũng “phản” ta như thế; còn gì khiến bản thân ta tội nghiệp hơn những ký ức sứt mẻ, hoặc bị xóa nhòa không tàn tích; trong tiếng Việt có một từ rất dịu dàng chỉ bệnh Alzheimer là “lẫn”. Ông ấy bị lẫn, hay bà ấy bị lẫn, là cách nói giúp giảm thiểu thiệt hại rất nhiều lần cho đối tượng được nói đến.
Như vậy, một album ảnh giúp ta chống chọi lại sự bất định của ký ức nhờ tạo ra những lát cắt, nhờ lưu giữ lại những mảnh ghép. Thực tế thì chiếc máy ảnh số ra đời, hay việc chụp hình dễ dàng hơn nhờ chiếc smartphone cho ra hàng loạt ảnh xinh tươi bóng lộn chỉ bằng vài cú click, không làm thay đổi nỗi lo sợ của ta trước sự bất định của ký ức, bởi vì trong ta vẫn tồn tại ham muốn được tạo ra những tấm ảnh; còn hơn thế, nỗi lo âu càng tăng thêm vì với việc chụp ảnh ngày càng dễ dàng, không lý do gì khiến người ta không bấm nút để lưu lại khoảnh khắc, khi chi phí và thời gian đều bị rút giảm xuống bằng không.
Chiếc smartphone và Google Photos không còn đóng vai trò của chiếc máy ảnh cơ và cuốn album ngày xưa nữa. Cái mùi của thời nào đó đã được là lại cho phẳng phiu, tinh tươm như qua bàn tay của công cụ AI Image Enhancer. Hai mươi tấm ảnh trong cuốn album được thay thế bằng hai vạn tấm trên Apple iCloud (sao không ai nghĩ tới chi phí cơ hội phải bỏ ra để quản lý chừng ấy ảnh, hoặc chỉ riêng việc nghĩ tới thôi đã thấy mệt rồi), chưa kể còn bao nhiêu Gigabyte các thước video clip.
Tức là khi phần lượng lên ngôi thì những công cụ số giúp tạo ra ảnh hàng loạt không còn vận hành giống như cách trí óc chúng ta khi nó lục lại một ngăn kéo ký ức, một lát cắt ký ức nào đó. Lát cắt ấy luôn luôn là hư ảo, và vì là một phần của hệ thống mùi, chúng hư ảo nhưng đậm nét. Chúng hằn sâu và không thể thay thế. Chúng là một phần của cơ thể.
(Ở bài sau, tôi muốn viết cụ thể hơn về cái “phần” dính dáng đến cơ thể ấy. Chúng tương phản với sự hiện ra và tạo sinh hàng loạt, bởi chính từ cách thức tạo tác cơ học ấy, những tấm ảnh mới được gán một ý nghĩa cố kết. Việc gán nghĩa cũng chậm rãi như khi người ta rửa từng tấm ảnh: dùng cử chỉ của bàn tay, và từ tốn tạo tác ra chúng bằng sự để tâm.)
Bạn có thể đọc bài này để nắm bắt sơ qua các kết quả nghiên cứu của Elizabeth Loftus. Baà từng bị đồng nghiệp và sinh viên lánh mặt khi nhận vai trò "làm chứng chuyên gia" trong phiên tòa xử Harvey Weinstein năm 2020. Bà chứng thực rằng con người mang những ký ức không chính xác, dù thời điểm xảy ra có thể ở rất gần, là chuyện bình thường, và vì thế có thể không nên dựa vào lời chứng của nạn nhân/người làm chứng để tái tạo đích xác cái “tội” xảy ra ở thời điểm đó.