Cách dễ dàng nhất để đánh mất trọn vẹn niềm tin vào một thứ gì là tin vào nó một cách tuyệt đối. Tin tuyệt đối không nhất thiết phải là tin mù quáng. Khi ta tin rằng một thứ thể hiện cho chân lý tuyệt đối, ta cũng tin rằng khởi nguồn cho mọi sự, rằng xuất phát điểm của niềm tin ấy — trong tương quan với bản thân ta — là chân thực. Ta cũng tin rằng con đường dẫn đến niềm tin ấy, bồi đắp cho sự hiểu biết của ta, là không có kẽ hở, vẹn nguyên và không tì vết. Đó là ý nghĩa của sự tuyệt đối, bởi khi, hoặc là (1) tồn tại kẽ hở, hoặc (2) có sự thao túng của một thực thể có ý thức nào đó, thì sự tuyệt đối và chắc chắn không còn nữa.
Niềm tin vào khoa học cũng vậy. Tin tuyệt đối là cách dễ nhất để đến một thời điểm, đột nhiên bằng một sự khai mở, người ta có thể chối bỏ tất cả: phủ nhận mọi sự hiểu biết mình đã có (cũng là phủ nhận vai trò của trường học và ít nhất 12 năm đèn sách), phủ nhận vai trò của thông tin và báo chí nhưng đồng thời lại tin vào những nguồn thay thế (Facebook, nhóm chat Telegram, 4chan), và quay lưng cả với những người thân hữu. Ở thái cực này, chúng ta có hiện tượng là một nhóm người tin vào thuyết âm mưu.
Niềm tin vào khoa học
Khoa học cũng như mọi “sản phẩm” và “kết quả” và “thành tựu” do bàn tay và khối óc con người tạo nên, không bao giờ là thiếu những kẽ hở, hoặc vẹn nguyên và không tì vết. Ở đây khoa học khác với giáo điều. Nếu như ta coi xuất phát điểm và quá trình hình thành giáo điều không có sự xúc tác của bàn tay và khối óc con người, thì giáo điều vẫn có thể tượng trưng cho một chân lý tuyệt đối. Chẳng hạn giáo điều khiến ta tin vào sự thánh thiêng của một văn bản, và văn bản ấy đến từ ông Trời, e.g., văn bản ấy là logos, là phương tiện truyền đạt agenda, kế hoạch và ý định của Đức Chúa Trời cho loài người, thì giáo điều ấy là chân thực trong hệ thống ấy; ta không bàn đến ở đây.
Khoa học thì khác. Khoa học đến từ sự vận hành liên tục của quá trình thực nghiệm, của thế hệ sau dựa trên những sản phẩm, kết quả, và thành tựu của thế hệ trước. Người làm khoa học, ở một mức độ nào đấy, luôn đánh giá cao sự tranh cãi, việc lật lại, vặn hỏi, truy vấn, sự phúc đáp, phản hồi và chấp thuận từ người khác. Trong tương tác của người với người đó, rõ ràng sẽ có tác động của cảm xúc, của lòng tham, của niềm tin khó bẻ gãy của một nhóm người nào đấy bám vào một giáo điều nào đấy, và những va chạm của lương thức chung (common sense) hay giá trị truyền thống của một cộng đồng mà đa phần dẫn tới thứ ta hay gọi là “đạo đức”. Những va chạm này không tạo nên mắt xích của khoa học (vì không thực chứng được) nhưng vẫn tác động tới khoa học.
Niềm tin vào khoa học được gieo vào một người từ nền giáo dục phổ thông. Gieo cái gì và gieo như thế nào tùy thuộc và chương trình học và khung xã hội-chính trị ở chỗ đó. Khung chương trình phổ thông ở Việt Nam và Liên Xô ngày xưa gần như là duy nhất. Một nhà nghiên cứu có thể lôi tất tật sách giáo khoa từ lớp một đến mười hai và làm discourse analysis không khó khăn gì, nếu như chỉ có một hoặc hai bộ sách giáo khoa. Họ có thể xem, chẳng hạn, một chương trình như thế ảnh hưởng thế nào đến niềm tin vào khoa học hiện đại, một cách bình quân, của từng nhóm dân số (vì lứa 6x, 8x, 9x hay 10x có thể trải qua những chương trình khác nhau) và tỉ lệ rơi vào bẫy của thuyết âm mưu như thế nào (anti-vaccine, fake news, hay QANon).
Khoa học: kẽ hở, tì vết và những hoàn cảnh
Những năm cấp hai, tôi không nhớ cụ thể năm nào, trong chương trình vật lý của chúng tôi thi thoảng có những tiết làm thí nghiệm. Trường cấp hai của tôi là trường bình thường ở tỉnh, không thực nghiệm hay phân ban, và đi theo bộ sách giáo khoa của Bộ. Trong rất ít giờ làm thí nghiệm ấy, tôi nhớ một lần chúng tôi làm thí nghiệm để đo gia tốc trọng trường. Ta được học rằng g(n) bằng xấp xỉ 9,8 mét/ giây bình phương. Bằng những phép đo khoảng cách rơi, thời gian rơi của vật, ta tính được g. Sau vài lần thí nghiệm, ta tính g bình quân và ra được con số g gần chính xác (xấp xỉ 10 m/s2).
Tôi không nhớ chính xác các bước trong thí nghiệm ấy, nhưng bạn có thể xem clip này, một ví dụ gần tương tự, được do bằng con lắc.
Chúng ta biết rằng, theo Newton thì lực hấp dẫn giữa Trái Đất và một vật, khiến cho vật ấy rơi từ trên cao, xuất phát từ trọng lực mà Trái Đất tác dụng lên vật đó. Chúng ta có bài học vật lý, rằng gia tốc trọng trường của vật ở gần bề mặt Trái Đất bằng xấp xỉ:
với G “lớn” là hằng số hấp dẫn, M và R là khối lượng và bán kính của Trái Đất. g “nhỏ” là trọng trường cục bộ của Trái Đất, tùy thuộc vào vật nằm là là mặt đất (như quả táo trên cây) hay nằm ở độ cao đáng kể.
Gia tốc rơi tự do của vật ở trên cao bằng
với h là độ cao của vật so với mặt đất (tính bằng mét).
Tính tuyệt đối là vấn đề triết học mà dường như không một học sinh nào được thầy cô gợi mở. Kéo theo tính tuyệt đối là tính vô hạn hay hữu hạn, sự trường cửu hay chóng vánh nhất thời của sự vật và hiện tượng. Theo công thức ở trên, G “lớn”, M, hay R là những con số có thể tính được, nằm trong sách giáo khoa. (Hằng số hấp dẫn G được tính như sau.) Khối lượng hay bán kính của Trái Đất cũng tính được hết (hay thiệt!). Khi ta tin vào tính tuyệt đối và học sinh không được khuyến khích nêu lên thắc mắc, bài học đến đây là kết thúc. Cứ áp dục những hằng số vào phương trình, cộng thêm độ cao đo được của vật, là xong hết, ta sẽ ra được số g nhỏ xấp xỉ.
Nếu như bài học chưa kết thúc…
Nếu như bài học chưa kết thúc, học sinh hoàn toàn có thể đặt ra những thắc mắc như:
Tại sao em đo được lúc thì g = 9,78, lúc g = 9,83?
Uầy cái bàn cứ cập kênh em không đo được!
Khối lượng Trái đất thế đ’éo nào tính được hả mày? (học sinh hỏi nhau)
Có khi nào Trái Đất nở ra hoặc nặng hơn không? Nếu thì thì mọi thứ ta học đều sai à?
Phương trình trên không tính tới gió, nhưng gió là một phần của sống cơ mà. Vì như một bài học vật lý khác, gió sinh ra từ những nơi có áp suất không khí khác nhau, làm gì có chỗ nào không có gió?
Em tính được g lớn hơn 10. Em có bị ngu không?
Đấy là những câu hỏi tôi vừa nghĩ ra. Thời của tôi trong tiết thí nghiệm, học sinh không có dấu hiệu nào là muốn đặt ra thắc mắc, vì giả sử, dù có đặt ra thắc mắc như trên, trong đầu ta cũng tự thuyết phục mình rằng, hỏi thế thì thầy cũng chẳng biết trả lời thế nào, khéo do mình làm sai!
Đó cũng chính là vấn đề của sự lượng hóa bằng mô hình và phương trình. Với các hằng số như trên, không ai có thể giải thích được vì sao kết quả ra khác, hoặc vì sao thế này, thế nọ. Lý do chung chung là ta làm thì nghiệm chưa chuẩn, thôi bây giờ ta làm lại cho chính xác hơn.
Nhưng, làm-lại-cho-chính-xác-hơn là đi ngược với thực chứng. Vì ta bẻ kết quả của ta cho giống với kết quả ta hình dung ban đầu.
Kẽ hở nằm ở đâu?
Một kẽ hở gần như ai cũng có thể nhìn ra là các hằng số vật lý rất khó đo được với độ chính xác cao: G lớn, M và R. Nhưng vì chúng là hằng số, ta cần chúng là con số cụ thể mới có thể tính ra được kết quả của một giá trị khác trong phương trình. Gọi là “hằng số” nhưng chúng chỉ có thể xấp xỉ đúng. Và trong một phương trình mà ta có ba giá trị chỉ có thể xấp xỉ đúng, thì mức độ xấp xỉ sai của giá trị còn lại sẽ bằng ba độ lệch nhân với nhau. Giá trị đó dễ sai hơn gấp bội.
Như tôi trình bày ở bài trước
Vào thời điểm một mô hình được cộng đồng khoa học — hoặc, chẳng hạn, một nhóm mainstream trong giới kinh tế học — thống nhất coi là nó có thể sử dụng được, sự xấp xỉ ấy luôn luôn vô cùng nhỏ, và sự lệch chuẩn để có thể gọi là sai khó có thể đong đếm bằng mắt thường.
Một giá trị “hằng số” như G, M và R có thể được tính chính xác đến mức độ phần nghỉn tỉ, nhưng so what? Chúng có đúng là hằng số hay không? Và câu hỏi quan trọng hơn, vì sao người ta chỉ tính chúng ra đến gần đúng, xấp xỉ, và vai trò của những kẻ hở ấy trong khoa học là như thế nào?
Sự tồn tại của những kẻ hở liệu có kéo theo sự phản chứng, tức là, liệu ta có thể nói định luật này, định luật kia của Newton là sai, vì suy cho cùng, gọi là “hằng số” mà còn không tuyệt đối đúng thì “định luật” cũng phiên phiến thế thôi, còn lâu mới gọi là xác định được?1 Cách nghĩ rằng mọi thứ đều chỉ là phiên phiến, vào thời đại số ngày nay, rất dễ làm mồi cho những lập luận phản khoa học. Thời đại của hậu chân lý, post-truth, chẳng nằm ở đâu xa, nếu không phải là cách nghĩ rằng mọi thứ mà “phía bên kia” coi là niềm tin đều chỉ là phiên phiến và… rác rưởi — nếu như, khoảng cách giữa 9,78 và 9,83 nói lên rằng một khoa học về trọng trường Trái Đất tồn tại vài trăm năm như thế, chẳng khác gì là một sự phiên phiến và… rác rưởi.
Vai trò của “những hoàn cảnh”
Ở đây tôi muốn dùng khái niệm chính xác không phải là “context” (bối cảnh tổng quát, văn cảnh) mà là “circumstances” (hoàn cảnh, bối cảnh khu biệt) và tôi dùng với số nhiều: những hoàn cảnh.
Ta quay lại một chút với lực hấp dẫn nói trên, và phát hiện nổi tiếng của Newton. Giai thoại kể rằng Newton ngồi ăn brunch dưới gốc táo, bị quả táo rơi trúng đầu và bất chợt ngộ ra quy luật về lực hấp dẫn của Trái Đất. “Ngồi ăn brunch” là tôi tự chế ra, nhưng hẳn nhiên là ông phải ngồi dưới gốc cây táo vì một lý do nào đó: vừa hết giờ học giảng đường, ngồi đợi bạn, chơi Candy Crush, hay đơn giản là ngồi một mình để suy nghĩ. Như vậy ngay việc ngồi dưới gốc táo của Newton đã là một hoàn cảnh khu biệt. Một circumstance.
Một học sinh học bài học vật lý về luật hấp dẫn phải đối mặt ngay với phương trình nói trên, thả các hằng số G, M, R và độ cao h vào phương trình và tính kết quả, xong sau đó hết bài, sẽ chỉ mang suy nghĩ rằng phương trình ấy, mô hình ấy là kết quả duy nhất, xác định của các nhà khoa học (và các thầy cô) đi trước. Giả sử bạn học sinh ấy có đứa em, đứa em hỏi, bán kính của Trái đất tính thế nào anh, người anh hẳn sẽ cho câu hỏi đó là ngô nghê, vì R là hằng số, những người đi trước hẳn nhiên đã tính nát rồi.
Nhưng câu hỏi ấy chưa hẳn đã ngô nghê!
R ấy là của vài trăm năm trước, Trái Đất vẫn còn tương đối là Trái Đất nguyên sơ. Trái Đất của thế kỉ 21, đang nóng dần lên và bị con người can thiệp thô bạo, đào sông, lấp biên, xây cáp treo thì R ấy có còn như ngày xưa không hay phải tính toán lại, và phải tính toán lại mỗi năm nếu như cứ mỗi năm Trái Đất nóng thêm một vài phần trăm độ (vật nóng lên thì nở ra, âu cũng là bài học vật lý"!). Và R phải tính ở đâu mới gọi là R chuẩn đây. Trái Đất có phải là một hình cầu tròn “tuyệt đối” không?
Chúng ta đã có thêm “những hoàn cảnh” của người làm khoa học: họ đo đạc các giá trị ấy ở đâu, trong hoàn cảnh nào, với những công cụ nào, hạn sử dụng của chúng còn lâu không, cấu trúc và tôn ti (hierarchy) của cơ sở nơi họ làm việc như thế nào, họ có bị tác động nhiều từ cấp trên không, cấp trên họ gọi vốn cho dự án đó từ nguồn nào, liệu có phải từ các công ty tư bản cá mập, v.v — tất cả những điều đó đều có thể tác động tới kết quả của công việc làm khoa học, kể cả đó có là khoa học chính xác nghiêm ngặt như toán học hay vật lý.
Khoa học là lần dò sự hỗn độn
Làm khoa học không phải là chu trình thô sơ như những thí nghiệm nói trên: đo khoảng cách, đo trọng lượng, đo vận tốc, áp dụng hằng số và tìm ra gia tốc. Vì không thô sơ nên nó đầy tì vết và không thể tuyệt đối đúng. Phương trình và mô hình là những kết quả sau cùng, vì thế trông chúng neat và đẹp. Còn phía sau đó là phông nền của những phép thử sai: lần thử số 4, 50 và 125 có thể ra kết quả hoàn toàn khác với mô hình, nhưng bình quân 300 lần thử thì mô hình được đưa ra là xấp xỉ đúng.
Khoa học thực chứng theo đó có thể hiểu là dùng những đại lượng xác định để mô hình hóa sự bất định của vạn vật. Khi ta hiểu trong bất định có xác định, ta không cần tin rằng khoa học là đúng tuyệt đối, hay g nhỏ là hằng số bất biến, nhưng ta biết rằng quá trình thử sai, và truy vấn, và phản bác, và đánh giá, và kiểm tra chéo, và sự minh bạch, là có ý nghĩa.
Tì vết, kẽ hở và những sự thiên lệch trong khoa học không phải vấn đề mới. Bruno Latour, nhà nhân học và nghiên cứu về lịch sử khoa học, vừa mất vào tháng Mười, từng tìm tòi rất sâu vào “những hoàn cảnh” của việc làm khoa học trong phòng thí nghiệm. Ông cùng Steve Woolgar viết cuốn Laboratory Life: The Construction of Scientific Facts (1979). Trong sách, tác giả chỉ ra những cách thức giao tiếp và truyền đạt ở bên trong phòng thí nghiệm như là những tác động tuy không tiên quyết nhưng có ảnh hưởng đến kết quả, là những fact như những người ở ngoài phòng thí nghiệm được biết (học sinh phổ thông chẳng hạn).
Luận điểm mà Latour và Woolgar nhấn mạnh: mỗi một nhà khoa học không phải ai cũng có lộ trình cụ thể và rõ ràng như cách tính g “nhỏ” nêu trên, tất cả họ đều đối mặt với một liên hoàn các sự kiện không lường trước, hỗn độn và bất định. Họ phải lần dò qua sự hỗn độn và bất định đó, bằng những công cụ họ có trong tay, trong những hoàn cảnh cụ thể. Họ ý thức được phông cảnh của “thí nghiệm” họ làm đầy những tiếng ồn, những sự gây nhiễu. Họ tìm thấy mình bị đặt trong ý chí chính trị của cơ sở nơi họ làm việc. Nhưng lựa chọn của họ, trong cái nhìn hồi cố của chúng ta, là tiếp tục làm, làm và làm, bằng bàn tay và khối óc.
Ý nghĩa của khoa học theo cách đó dường như là một aura. Nó toát ra và mang những mùi riêng biệt và cụ thể, như trong căn bếp với những nguyên liệu, món ăn và những đầu bếp và phụ bếp, những cái tủ lạnh, tủ đông và bếp lò. (Có thể là Siemens, có thể là Hitachi). Nó là một quá trình cố gắng làm chủ của những con người đang thực hiện một công việc. Sẽ có đánh giá nhà hàng ấy ngon hay không ngon theo cách thức nào đấy. Người làm tốt sẽ nhận được tưởng thưởng. Nhưng sẽ không có gì là chính xác tuyệt đối (như cách ta nghĩ, ớt dĩ nhiên cay, và muối dĩ nhiên mặn). Đó cũng chính là khía cạnh “khoa học xã hội” của những môn khoa học chính xác. Chúng ta sẽ bàn đến lần sau.
Có lẽ từ “hằng số”, tức là “constant”, như ta vẫn dùng nên được gọi là “định số” thì đúng hơn chăng, vì “định” (定) là tiêu chuẩn, cố định và không đổi, còn “hằng” (恆) chỉ sự lâu bền và kiên trì? Theo Từ điển Trần Văn Chánh, “hằng” là “lâu dài, thường xuyên, bền bỉ, kiên trì, mãi mãi”. Tôi mới thử tra bằng Wikipedia thì tiếng Trung là “thường số” (常数) và tiếng Nhật là “định số” (定数).
Vậy là phỏng đoán của tôi về cách dịch thuật ngữ này cũng giống với tiếng Nhật. Bạn đã thấy tầm quan trọng của thắc mắc và truy vấn trước những phương trình khô khan, mà trong bằng ấy năm những người học sinh cứ… tính đại chưa? Và tôi nghĩ, cách chúng ta gọi nó là “hằng số”, “thường số”, hay “định số”, ảnh hưởng không nhỏ đến phương pháp tư duy và sự hình dung trừu tượng của cả một xã hội về hiện tượng ấy.