Điên rồ ư? Chuyện thường thôi!
Khi những điều khó tin xảy ra, người ta vẫn cứ sống như thể chẳng có gì. Đó là một cơ chế tâm lý. Hiểu thiên kiến bình thường hóa để không bị bất ngờ trước những cú sốc lớn, và đôi khi, còn có thể cứu mạng ta.
Stefan Schmitt và Ulrich Schnabel
Tuần báo Die Zeit số 08/2025, ngày 19/02/2025
***
Muốn hiểu hiện tại, hãy đọc truyện “Cái mũi“ của nhà văn Nga Nikolai Gogol (1809-1852). Trong câu chuyện kỳ ảo này, Gogol (năm 1836) đã mô tả sự thâm nhập của điều không-thể-tin vào cuộc sống thường nhật: một cái mũi tự dưng “nhảy” ra khỏi mặt chủ nhân Kovalyov, sống cuộc đời riêng, lang thang khắp thành phố và nhất quyết không chịu trở về “vị trí cũ”. Điều kỳ quặc nhất không phải là sự việc ấy, mà chính là phản ứng của mọi người: chẳng ai kinh ngạc, điều quái gở được chấp nhận một cách thản nhiên. Khi Kovalyov đáng thương muốn đăng tin tìm mũi, người tiếp nhận hồ sơ vẫn rất lịch sự, không hề tỏ ra ngạc nhiên; họ từ chối đăng tin với lý do “thủ tục hành chính” - chứ không phải vì nó... khó tin.
“Câu chuyện của Gogol là một ví dụ điển hình cho những gì đang diễn ra”, nhà văn George Saunders nhận xét về những tuần đầu tiên trong nhiệm kỳ tổng thống của Trump. Chính quyền Mỹ tuyên bố các nền dân chủ châu Âu (chứ không phải Nga hay Trung Quốc) mới là cái gai. Họ muốn “cuỗm” Greenland từ tay Đan Mạch và, theo đề xuất của một nghị sĩ Cộng hòa, đổi tên nó thành “Red, White and Blueland”. Nhiều điều tai ngược khác cũng xảy ra ở “hậu trường”: hàng ngàn công chức bị sa thải - có người chỉ sau một đêm; các đề xuất nghiên cứu khoa học không được duyệt nếu trong đó có những từ như “chủng tộc”, “giới tính”, “công bằng” và “đa dạng”; ngay cả “đa dạng sinh học” cũng bị cấm, vì... quá “đa dạng”. Tất cả những điều này đã vượt quá giới hạn bình thường.
“Điều không-thể-tin xảy ra, và khi chúng ta không phản ứng ngay từ đầu, điều không-thể-tin sẽ dần trở nên có thể tin được, rồi cuối cùng thành... bình thường”, Saunders nói. Với các sinh viên của mình tại Đại học Syracuse, nhà văn từ nhiều năm trước đã dùng truyện “Cái mũi” như một ẩn dụ về cách đối phó với chủ nghĩa phát xít (có thể đọc trong cuốn A Swim in the Pond in năm 2021 của ông): tất cả mọi người đều “tuân thủ nghiêm ngặt những gì hệ thống cho phép và mong đợi ở họ”. Thay vì kinh hoàng và phát hoảng, người ta “đối xử với điều gì đó đáng lo ngại (một cái mũi bị mất, một nghị trình chính trị đáng ghê tởm) bằng thái độ lịch sự, thiện chí - một thái độ lịch sự muốn mọi thứ tiếp tục như thường lệ”.
Thực tế, phản ứng của người Mỹ trước những hành động phá vỡ điều cấm kỵ của Trump có vẻ kỳ lạ và dè dặt. Dù có một số cuộc biểu tình phản đối lẻ tẻ, nhưng nhìn chung, tình hình vẫn yên ắng hơn nhiều so với thời điểm Trump mới nhậm chức. Phần lớn người dân và các tổ chức rõ ràng vẫn “tuân thủ nghiêm ngặt” khuôn khổ hệ thống và cố gắng “với thiện chí lịch sự” để duy trì hiện trạng. Ví dụ, Hiệp hội Vi sinh vật học Hoa Kỳ đã âm thầm xóa các thuật ngữ bị cấm khỏi trang web của họ mà không hề thảo luận với các thành viên.
Để hiểu rõ hơn về hiện tượng này, một khái niệm trong tâm lý học có thể hữu ích: normalcy bias,1 tức “thiên kiến về tính bình thường”, hay chính xác hơn là “thiên kiến bình thường hóa”. Nó mô tả xu hướng phổ biến của con người khi đối mặt với thảm họa: đánh giá thấp mức độ nghiêm trọng và cho rằng mọi thứ nhìn chung sẽ vẫn “bình thường” và tiếp diễn như cũ.

Một ví dụ điển hình là phản ứng của nhiều người trong tòa nhà World Trade Center trong vụ khủng bố 11/9/2001. Sau khi hai máy bay đâm vào tòa tháp đôi, nhiều người không lập tức hoảng loạn bỏ chạy mà thậm chí còn mất tới nửa tiếng mới rời đi. Các cuộc phỏng vấn với những người sống sót cho thấy nhiều người vẫn bình tĩnh tắt máy tính để giữ gìn nơi làm việc gọn gàng. Thay vì nhận thức được tính chất khủng khiếp của sự việc, họ vẫn bám víu vào thói quen thường ngày.
Nhà tâm lý học người Thụy Điển Joakim Sundh từ Đại học Uppsala gọi đây là “xu hướng lặp đi lặp lại của con người trong việc đánh giá thấp hoặc bỏ qua các mối đe dọa hiện tại hoặc tương lai”. Sundh đã công bố một bài tổng quan về “hành vi của con người trong bối cảnh những sự kiện không thể lường trước nhưng có hậu quả nghiêm trọng” và lý giải tại sao chúng ta gặp khó khăn với những sự việc nằm ngoài quy chuẩn. Bởi vì chúng ta “diễn giải thông tin mới dựa trên những giả định sẵn có”. Chế độ “luôn-như-vậy” này hoạt động như một bộ lọc đối với những thông tin không phù hợp với hình ảnh quen thuộc: những gì chúng ta không biết, chúng ta không nhận ra. Và thiên kiến nhận thức cá nhân này khi cộng hưởng lại sẽ tạo ra tác động chính trị to lớn.
“Nếu một nhóm người có vũ trang mang theo những biểu tượng kỳ lạ xông vào các tòa nhà chính phủ, người Mỹ hẳn đã nhận ra đó là một nỗ lực đảo chính”, Timothy Snyder, sử gia của Đại học Yale, viết vào đầu tháng Hai trên Substack của mình. Khi đó, người dân hẳn đã phản ứng và cuộc đảo chính đã thất bại. Thay vào đó, những thanh niên mặc thường phục đã xâm nhập vào các cơ quan, chỉ được trang bị USB. “Cuộc đảo chính này thực sự đang diễn ra. Và nếu chúng ta không nhận ra bản chất của nó, nó có thể thành công.”
Nhân tiện, khi đọc từ “đảo chính”, bạn có cảm thấy khó chịu không? Bạn có tìm lý do để cho rằng mọi thứ không đến nỗi tệ không? Nếu có, bạn đang trải nghiệm chính xác cái “thiên kiến bình thường hóa” đó.
Hiện tượng này không chỉ diễn ra ở Mỹ mà còn ở ngay tại đây, nước Đức. Chúng ta đang chứng kiến những biến động bất thường trên nhiều lĩnh vực - như biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng, với tháng Một vừa qua là tháng nóng nhất từ trước đến nay; hay sự trỗi dậy của trí tuệ nhân tạo, thứ “có thể bị lợi dụng để chống lại nền dân chủ của chúng ta, thậm chí chống lại tương lai của loài người”, như lời cảnh báo của nhà nghiên cứu AI Yoshua Bengio (trên ZEIT số 07/25).
Làm sao để chống lại xu hướng bình thường hóa?
Tuy nhiên, trong chiến dịch tranh cử mùa đông 2025 ở Đức, tất cả những biến động toàn cầu này lại đóng vai trò rất nhỏ. Thay vào đó, các chủ đề quen thuộc cũ (kinh tế, thuế, di cư) lại chiếm ưu thế, như thể chúng ta không đang trải qua một giai đoạn đặc biệt trong lịch sử. Thế giới đang mất đi “cái mũi” của mình, nhưng dường như không ai muốn thừa nhận điều đó.
Việc vội vàng tìm kiếm những lý lẽ xoa dịu trước những điều khủng khiếp cũng liên quan đến cách thức hoạt động của não bộ. Để đảm bảo sự sinh tồn, não bộ có xu hướng tự bảo vệ tâm lý. Khi đối mặt với các mối đe dọa, nó cố gắng chống lại nỗi sợ hãi đang dâng lên và duy trì cảm giác bình thường. Hơn nữa, nó cố gắng giảm thiểu nỗ lực tư duy và đưa ra quyết định nhanh chóng. Do đó, chúng ta thường chỉ xem xét “một phạm vi khá hẹp các khả năng”, như Joshua Knobe, nhà nghiên cứu khoa học nhận thức và triết học từ Đại học Yale đã giải thích trong một bài viết cho Vox vào thời điểm Trump mới nhậm chức lần đầu tiên. Kết quả là: con người thể hiện “một xu hướng có hệ thống đáng kinh ngạc trong việc hoàn toàn bỏ qua những khả năng mà họ coi là bất thường”.
Trong đó, môi trường xã hội cũng đóng vai trò quyết định. Bởi vì chúng ta làm gì trong những tình huống phức tạp? Chúng ta nhìn vào người khác. Nếu những người xung quanh không phản ứng, thông thường chúng ta cũng sẽ thụ động. Việc đứng lên một mình có thể tiềm ẩn rủi ro - đặc biệt là trong những lúc nhiễu nhương.
Nhiều nghiên cứu tâm lý học cho thấy đôi khi chính hành vi này dẫn đến thảm họa; ví dụ như thí nghiệm “Khói trong phòng“ của John Darley và Bibb Latané năm 1968: Trong khi người tham gia thử nghiệm đang tập trung vào một nhiệm vụ, đột nhiên khói dày đặc bốc ra từ ống thông gió - như thể một đám cháy đang bùng phát. Nếu một người tham gia ở một mình, họ thường nhanh chóng tìm cách đảm bảo an toàn. Tuy nhiên, nếu có những người khác trong phòng - những người được người điều hành thí nghiệm hướng dẫn phớt lờ khói - thì người tham gia phản ứng thụ động hơn nhiều. Khi nhà tâm lý học xã hội Dominic Abrams lặp lại thí nghiệm khói 20 năm sau để làm phim, những người tham gia không biết gì đã ngồi lâu đến mức nếu là đám cháy thật, họ đã có thể chết vì ngộ độc khói.
Vì vậy, dù xu hướng bình thường hóa dễ hiểu đến đâu, nó vẫn có thể gây ra hậu quả tàn khốc trong những tình huống cực đoan. Điều này thể hiện khi người ta từ chối sơ tán trong thảm họa thiên nhiên hoặc - như trong trận sóng thần năm 2004 ở Thái Lan - bình thản quay phim mối nguy hiểm chết người.
Ngay cả khi không thể phớt lờ điều gì đó không thể tin được nữa, xu hướng bình thường hóa vẫn nhanh chóng quay trở lại. “Điều gì đó hôm qua còn gây xáo trộn nghiêm trọng, qua sự lặp lại liên tục sẽ dần được coi là bình thường”, nhà thần học Petra Bahr mô tả quá trình bình thường hóa dần dần. Giám mục khu vực Hannover này là thành viên của Hội đồng Đạo đức Đức, tổ chức đã công bố một báo cáo về “Tính bình thường như một quá trình” vào tháng 10 năm ngoái. Bahr bắt gặp những ví dụ về điều này trong nhiều lĩnh vực. “Chủ nghĩa bài Do Thái công khai như người ta thấy ngày nay ở trung tâm xã hội đã không thể xảy ra cách đây 20 năm.” Tương tự với khủng hoảng khí hậu: “Chúng ta đã quen với số lượng ngày càng tăng của lũ lụt và sóng nhiệt, điều mà trước đây người ta không thể tưởng tượng được.” Trong khi đó, nhà sử học Ruth Ben-Ghiat từ Đại học New York cảnh báo trên Substack của mình rằng việc bình thường hóa sự dối trá, tham nhũng và các hình thức bạo lực chính là yếu tố cốt lõi quyết định sự thành công của chủ nghĩa độc tài.
Vậy, xã hội có thể làm gì để chống lại sức mạnh cám dỗ của sự bình thường hóa? Thứ nhất, chỉ cần nhận thức về thiên kiến này đã giúp ta không dễ dàng trở thành nạn nhân của nó. Thứ hai, tất cả những người công khai từ chối sự dịch chuyển chuẩn mực đều quan trọng - như Giám mục Mariann Budde, thuộc giáo phận Washington của Giáo hội Giám nhiệm, người đã nhắc nhở Trump về chuẩn mực giá trị Kitô giáo trong bài giảng của bà. Chính vì nhiều người định hướng theo người khác trong những tình huống bất ổn, những tấm gương như vậy có giá trị vô cùng.
Thứ ba, việc giữ vững giá trị của bản thân cần được tôi luyện, và điều này đòi hỏi một khả năng nhạy bén về nắm bắt thời cuộc, không bị che mờ bởi xu hướng bình thường hóa. Nghĩa là: thay vì tự trấn an rằng mọi thứ sẽ không tệ đến mức đó, mỗi người nên chủ động chống lại “thiên kiến bình thường hóa”, dù chỉ để mở rộng giới hạn kỳ vọng của chính mình.
Gần đây, Bộ Quốc phòng Anh đã mời các tác giả viết khoa học viễn tưởng phác thảo các kịch bản tương lai vượt ra khỏi những điều quen thuộc. Tên dự án “Khả năng phục hồi vượt ngoài năng lực quan sát được” đã phản ánh rõ mục tiêu: suy nghĩ vượt khỏi xu hướng bình thường hóa. Mỗi người có thể tự áp dụng châm ngôn của người Anh “Hy vọng điều tốt nhất, chuẩn bị cho điều tệ nhất” và rèn luyện tư duy để thoát khỏi “thiên kiến bình thường hóa”. Nguyên tắc ở đây là: điều thú vị nằm ở những suy nghĩ gây khó chịu. Ví dụ, điều gì sẽ xảy ra nếu trong bốn năm tới Donald Trump được bầu làm tổng thống trọn đời, đảng AfD nắm quyền tại Đức, hoặc AI tiếp quản công việc của bạn?
Hình dung như thế không có nghĩa là những điều này nhất định sẽ xảy ra. Nhưng cũng không có gì là không thể. Và từ nghiên cứu về thảm họa, người ta biết rằng: những ai đã chuẩn bị tinh thần cho điều bất ngờ sẽ đối phó tốt hơn những người bị bất ngờ. Chỉ khi đó, trong tình huống nghiêm trọng, ta mới có thể kiên quyết khẳng định rằng: “Điều này không bình thường!”
Tân dịch
Thiên kiến bình thường hóa là xu hướng tâm lý khiến con người đánh giá thấp khả năng xảy ra của những sự kiện bất thường hoặc thảm họa, dẫn đến phản ứng chậm chạp hoặc không đủ chuẩn bị. Khi đối mặt với tình huống nguy cấp, những người bị ảnh hưởng bởi thiên kiến này thường có xu hướng tin rằng mọi thứ vẫn sẽ diễn ra như bình thường, ngay cả khi có bằng chứng rõ ràng về nguy cơ.
Đặc điểm của thiên kiến bình thường hóa:
Phủ nhận rủi ro: Không tin rằng điều bất thường có thể xảy ra.
Phản ứng chậm trễ: Chần chừ hoặc không hành động kịp thời trước nguy cơ.
Tâm lý trấn an: Tin rằng “mọi chuyện sẽ không tệ đến mức đó” mà không có cơ sở thực tế.