Về Lương Sấu Minh và Karl Ove Knausgård
Thử tìm hiểu nội hàm khái niệm "reactionary" và "phản động"
1.
Hai hình dưới đây tôi chụp gần sáu năm trước trong một lần đi dạo trong khuôn viên rất đẹp, gần ngay trung tâm thành phố, của trường đại học Milan, mà mãi về sau tôi mới biết đây là di tích nổi tiếng, có tên Ca’ Granda (Tòa nhà lớn). Quần thể này do Francesco Forza thiết kế vào thế kỷ 15, nhằm quy tụ 30 bệnh viện nhỡ và nhỏ xung quanh Milan làm một. Lần ấy vào đây vì tôi muốn tìm một thư viện để ngồi. Chỗ sinh viên đang đứng hút thuốc chính là một lối ra của thư viện nhỏ, nếu tôi nhớ không nhầm thì nằm kề bên khoa Ngữ văn.
Được ngồi thư viện và nghỉ giải lao ở đây, ai mà không thích chứ?
[Chức năng tìm kiếm của Google Images kinh thật, tôi tải bức hình này lên là tìm ra được ngay.]
Chính tại ghế đá ở khuôn viên này tôi ngồi đọc một bài báo viết về Michel Houellebecq (tác giả của Hạt cơ bản, Bản đồ và vùng đất, Sérotonine v.v.) phân tích về chuyện ông đứng vào hàng những tác giả reactionary. Vào thời điểm đó, vốn va chạm chưa đủ lớn, tôi không thể mường tượng rõ reactionary nghĩa là gì. Tôi chỉ nhận ra rằng cách dịch thường thấy trong tiếng Việt của từ này, “phản động”, hoàn toàn trớt quớt trong ngữ cảnh. Thế nào là một “nhà văn phản động”?!
Trong bài trước tôi đã nhắc đến những giới hạn của việc lệ thuộc vào kho từ Hán Việt, cụ thể là tiếng Hán dịch như thế nào, chúng ta bê y nguyên như vậy. Có một bạn hỏi rằng, nếu không mượn tiếng Hán, liệu tiếng Việt có biểu đạt được các khái niệm trừu tượng không? Dĩ nhiên là không, hoặc nếu cố thì cũng được chút chút. Nhưng điều đó có cần thiết? Tôi nghĩ trước tiên, Tiếng Việt (chỉ) cần diễn tả đầy đủ thế giới của người Việt. Thế giới đó phải là trung tâm (đối với người Việt). Với khái niệm mượn, chúng ta cần tìm một ảnh chiếu hiện diện trên thế giới đó, thay vì tìm qua ngả tiếng Hán. Chẳng hạn "tư sản" là tiếng Trung dịch từ khái niệm bourgeois, nhưng dùng chữ "tư sản" trong tâm thức người Việt trỏ về khái niệm đó liệu truyền tải ý nghĩa (1) có chính xác không và (2) có đầy đủ không? Chữ "tư sản" là một ví dụ cho "ý thức chữ Hán", nó phản ánh thế giới quan và ý hệ chính trị của người Trung Hoa, cụ thể là quãng sau năm 1949.
Khi một từ được tạo ra, nó gắn với một khung không-thời gian nhất định. Nó có thể có đời sống rất dài (chẳng hạn, ông trời/giời xuất hiện từ tiếng Việt trung cổ, từ trước năm 1651). Nó có thể có đời sống hạn hẹp (chẳng hạn, bác ái, tôi có cảm giác nó chỉ xuất hiện trong những văn bản cực kì chính tắc như Tuyên ngôn độc lập (1945)). Nó có thể có đời sống phong phú trong văn nói nhưng nằm ngoài phạm vi văn bản (như từ thảo mai). Khi mượn một từ gốc Hán để dịch một từ tiếng phương Tây, chúng ta cũng mượn luôn cái khung không-thời gian và ý hệ chính trị làm phông cho từ đó. Cái phông này không đổi (giống như khi ta hỏi, nguồn gốc của từ đó là gì?), nhưng trên thực tế ngôn ngữ mềm mại và biến đổi như nước chảy, và nước chảy từ chỗ cao tới chỗ trũng. Việc mượn cách dịch từ tiếng Hán vô tình đặt từ Hán Việt vào chỗ lập lờ giữa hai dòng chảy: dòng chảy của tiếng Trung và dòng chảy của tiếng Việt. Sự lệ thuộc vào chữ Hán Việt làm chúng ta nhìn thế giới không phải theo cách của mình.
2.
Trước khi đưa ra nhận xét mang tính cấu trúc về sự lệ thuộc của tiếng Việt vào tiếng Hán, chúng ta hãy thử đào sâu một vài “nhánh” của việc biến đổi ý nghĩa của từ ngữ thông qua con đường dịch thuật, vì suy cho cùng, “dịch là phản”. Ở bài trước, tôi đưa ra ví dụ hoa Cúc để dẫn chứng cho việc tiếng Hán dùng một từ chỉ loài hoa (Cúc) đã hiện diện sẵn trong văn hóa Á Đông để trỏ về một lớp khái niệm của các loài hoa cùng họ, cùng chi, cùng loài trong cách phân loại phương Tây. Sự khiên cưỡng, xê dịch và thiếu đồng bộ xảy ra khi người Á Đông buộc phải học mô hình phương Tây để xây dựng hệ thống phân loại (classification) cho riêng mình, nhằm đáp ứng các công việc mang tính sắp xếp với sách vở: làm từ điển, bách khoa thư, bố trí thư viện, giao tiếp giữa các thư viện khác nhau, v.v.
Ở bài này tôi muốn đưa ra một ví du khác về “dịch là phản” giữa tiếng phương Tây và tiếng Hán. Tiếng Việt mượn từ tiếng Hán, lại thông giao với tiếng Tây (Pháp, Nga), khiến cho việc hiểu sai nghĩa càng trầm trọng.
Trước tiên, ta có reaction / reactionary là cách dịch phổ biến nhất của từ 反动 (phản động), theo MDBG. Nghĩa hiện đại của nó được hình thành vào thế kỷ 19, xuất xứ từ một từ tiếng Pháp: réactionnaire. Theo cách hiểu Mác-xít, reactionary (phản động) và revolutionary (người cách mạng) là hai mặt đối lập. “Phản động” ở đây là đi ngược lại xu hướng phát triển của xã hội hiện thời (“phản” là một từ có hàm nghĩa rất xấu). Sự đối lập này được nâng lên tầng lý luận ngay sau cuộc xung đột Quốc-Cộng: phe Mao Trạch Đông dùng cặp đối lập này để tiễn các bạn đối lập (“phản động”) và tạo vây cánh những người cùng chí hướng xây dựng một nước “Trung Hoa mới”. Nhà “phản động” nổi tiếng nhất trong giai đoạn này chính là Lương Sấu Minh. Và không ai khác ngoài Mao viết ra cuốn sách phê phán tư tưởng của Lương là thiếu tinh thần xây dựng, đi ngược lại xu hướng tất yếu nhằm xây dựng một nước “Trung Hoa mới”: Phê phán tư tưởng phản động của Lương Sấu Minh (tháng 9 năm 1953, bản tiếng Anh ở đây). Và kể từ đó, cách mạng văn hóa, xét về mặt ý hệ chính trị, luôn đi đôi với tìm ra những phần tử phản động, các biểu hiện của chúng (sách, phim ảnh, poster, v.v. hiện diện những yếu tố “phản động”) và tiễn các bạn í lên đường.
Thế nhưng, nếu truy lại cặp reactionary/ revolutionary trong tiếng Tây (đừng quên Karl Marx là người Đức), không khó để nhận ra cặp tương ứng phản động/ cách mạng trong tiếng Hán là khiên cưỡng. Về mặt từ nguyên, revolution chứa đựng yếu tố “lật lại”, “lật đổ” (revolvere trong tiếng La Tinh), trong khi reaction mang nghĩa bật lại một hành động hay một quyền lực nào đó—nghĩa gần hơn trong tiếng Hán có lẽ là “phản ứng” (“phản ứng hạt nhân” chính là dịch từ “nuclear reaction”). Như vậy, quy những ai có xu hướng reactionary là phản động rõ ràng mang tính áp đặt. Đó là lý do sử gia phương Tây (chẳng hạn Frank Dikötter khi viết The Tragedy of Liberation) bàn về giai đoạn xung đột Quốc-Cộng và cách mạng văn hóa thường đặt từ “reactionary” trong ngoặc kép.
3.
Tôi muốn kết thúc bằng một câu hỏi mở, vậy người có xu hướng reactionary là gì? Hiểu một cách dân dã, đó là những ai muốn “bật” lại một trật tự quyền lực chi phối, thứ khiến họ nếu tuân phục sẽ cảm thấy trái với lương tâm mình, hoặc đơn giản là “thích bật” những khi nào cảm thấy không thoải mái. Ta ở giữa những người ăn chay hay vegan, ta tự hỏi vì sao phải khổ thế và cứu thế giới có phải là mục đích bao trùm lên tất cả. Ta ở giữa những người luôn đề cao đạo đức, ta tin rằng ở trong bầu không khí đó luôn tồn tại một tiêu chuẩn kép, dĩ nhiên là họ chừa bản thân họ ra. Ta bị dội ngược với những giá trị trống rỗng được xiển dương bởi hệ thống tư bản neo-liberalism đang làm cả thế giới ngày một ích kỷ, keo kiệt và coi bản thân mình là trung tâm trong cuộc chạy đua hết tốc lực tiến về phía những giá trị đó. Hiểu theo cách đó Michel Houellebecq là một nhà văn reactionary. Nhưng không nhất thiết ông là phản-động, hay phản lại động lực xã hội.
Nhà văn thú vị khác cũng thuộc típ này, người Na Uy, là Karl Ove Knausgård, một tài năng viết văn có lẽ mỗi thế hệ chỉ có một. Knausgård viết pho sách 6 tập mang tên Min kamp (Cuộc tranh đấu của tôi), cái tên nhại lại tác phẩm tai tiếng của Hitler. Mặc dù tập nào cũng dày 500-600 trang, giọng văn của ông rất thảnh thơi, tự nhiên, không một chút gồng. Ông kể tỉ mẩn những sự việc xảy ra thời thơ ấu lẫn hiện tại—chăm con, hục hặc với vợ, nỗi khó ở khi dự những cuộc party. Chẳng hạn ông kể đưa 3 đứa con nhỏ đến khu vui chơi, vợ ông bế đứa nhỏ đến một cái ghế cho bú, ông cho hai đứa lớn vào chơi một trò kiểu như nhà cười, ông ra ngoài đứng hút điếu thuốc, nhưng trời nóng quá hút không ngon thế là ông ném điếu thuốc xuống đất. Những sự chỉ có thế nhưng hiện ra rất sinh động.
Ở tập 2, “A Man in Love”, Knausgård kể một đoạn dài (mấy chục trang) chuyện đến dự tiệc sinh nhật một đứa trẻ học chung trường mẫu giáo với con mình, và việc cả ông lẫn con mình cảm thấy khó ở thế nào trong bầu không khí của những con người bảnh chọe và trống rỗng. Tại đó, người lớn cho bọn trẻ (tuổi mẫu giáo) ăn những miếng cà rốt cắt thành que, những món ăn từ rau củ vì chúng tốt cho sức khỏe thay vì bánh ngọt, kẹo mút, kem ốc quế, v.v.
What a stupid, bloody idiotic country this was. […] Children ate wholemeal pasta and wholemeal bread and all sorts of weird coarse-grained rice which their stomachs could not digest properly, but that didn’t matter because it was ‘beneficial’, it was ‘healthy’, it was ‘wholesome’. Oh, they were confusing food with the mind, they thought they could eat their way to being better human beings without understanding that food is one thing and the notions food evokes another. And if you said that, if you said anything of that kind, you were either reactionary or just a Norwegian, in other words ten years behind. [Tôi bôi đậm]
Ở đây nhân vật chính người Na Uy, sống và nuôi con ở Thụy Điển, bắt gặp sự xung đột về cách nhìn thế giới, và cái nhìn của lớp trung lưu ở Thụy Điển (những đại diện của neo-liberalism) làm ông ta cảm thấy không thoải mái. Reactionary ở đây vừa là đi ngược lại xu hướng xã hội hiện thời (neo-liberalism) vừa là sự tự giác tách mình ra khỏi khuôn khổ yêu cầu chúng ta làm những điều đi ngược lại cách ta nhìn thế giới, thứ giữ bản thân ta là cái ta-là. Reactionary mang hàm ý chế giễu từ phía người khác nhìn vào. Nhưng nhân vật chính thà mang cái nhãn ấy còn hơn, để được sống theo ý mình, sống theo cách mình vẫn sống.
Nói như người Mác-xít vẫn đúng, chúng ta cần giữ integrity để chống chọi lại các ái lực làm ta tha hóa đến từ thế giới xung quanh. Những ai có ý thức về vị trí của bản thân và sự “liêm trực” (hay “liêm khiết” như cách Mao gọi Lương Sấu Minh một cách chế giễu) đều mang mầm mống reactionary theo cách tương tự như nhân vật chính của Knausgård. Vậy giữa nhân vật xưng tôi và những người Thụy Điển, ai là phản-động, ai mới là cách mạng?