Khi Bảo Ninh viết lại ký ức chiến tranh
Nhân dịp bản tiếng Ý của Nỗi buồn chiến tranh được ấn hành
(Bản dịch Nỗi buồn chiến tranh sang tiếng Ý với nhan đề Il dolore della guerra, do Carlo Prosperi chuyển ngữ từ bản tiếng Anh, đánh dấu một bước đi quan trọng trong hành trình xuyên văn hóa của văn học Việt Nam hậu chiến. Việc tiểu thuyết này được giới thiệu đến độc giả Ý, trong một hệ thống văn hóa vốn đã quen với các diễn ngôn phương Tây về chiến tranh Việt Nam, không chỉ mở rộng không gian tiếp nhận của văn học Việt mà còn phá vỡ thế độc thoại của chủ nghĩa anh hùng chiến thắng trong ký ức chiến tranh.
Nỗi buồn chiến tranh không chỉ là một tiểu thuyết về chiến tranh; nó còn là tiểu thuyết về nội tâm, ký ức, hậu chấn và sự đứt gãy của thời gian lịch sử. Khi được đọc bên cạnh những tác phẩm như Những thứ họ mang của Tim O’Brien hay Có được là người của Primo Levi, tiểu thuyết của Bảo Ninh cho thấy một lối viết với chủ ý phá vỡ tuyến tính, đan xen giữa hiện thực và mộng tưởng, giữa cá nhân và cộng đồng, nhằm truy vấn câu hỏi: “Chiến tranh để lại gì cho những người sống sót?”)
Hòa bình và những gương mặt khuất
Corriere della Sera - La Lettura, số 20.04.2025
Từng cầm súng chống lại người Mỹ, sau đó Bảo Ninh viết nên một tiểu thuyết làm rung chuyển diễn ngôn anh hùng ca và từng gặp nhiều trở ngại trong quá trình xuất bản tại quê nhà. Nửa thế kỷ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông trở lại những cánh đồng chiến trận, và cuốn sách của ông cuối cùng đã vượt biên giới để đến với độc giả Ý.
Chúng ta từng hình dung nơi ấy từ phía những kẻ thất trận – người Mỹ. Giờ là lúc nhìn từ phía bên kia sườn núi: những câu chuyện khác cho một lịch sử khác. Những linh hồn người Việt lần theo ký ức và suy nghĩ của nhà văn Bảo Ninh; những “hồn ma và ác quỷ sinh ra từ thất bại” cũng là người Việt, những kẻ “từ chối bay lên trời và cứ tiếp tục vất vưởng nơi bụi rậm, rìa rừng, bên bờ suối”. Những hồn ma, ác quỷ ấy bám lấy con người như đám đỉa “lúc nhúc” trên da thịt lính tráng: không thể giật ra được, nhưng nếu không hậu quả sẽ còn tệ hơn – điều đó đúng cho cả đỉa và ký ức trận mạc – và thế là chúng trở thành một phần của đời sống.
Bảo Ninh là một cựu binh. Phe của ông, Bắc Việt, đã giành thắng lợi năm 1975 và tuyên bố thống nhất đất nước. Nhưng Bảo Ninh không phải người thắng cuộc, vì ông chưa bao giờ ngừng chiến đấu với những bóng ma của một thời kỳ dài đẫm chết chóc. Ngay cả bây giờ, ông vẫn đi lại trên những con đường cũ: “Chiến tranh đã kết thúc đúng nửa thế kỷ rồi. Cùng vài người bạn cựu binh, ông chia sẻ với tờ la Lettura, rằng tôi sẽ đi dọc đất nước, về lại những chiến trường xưa, thăm gia đình các đồng đội đã hy sinh trong cuộc chiến chống Mỹ. Không thành phố: không Hà Nội, không Sài Gòn. Chúng tôi sẽ về nông thôn, lên miền núi. Không kế hoạch cụ thể. Không thể liên lạc được với tôi đâu...”. Một địa lý của ký ức luôn truy đuổi chính nó.
Khi Bảo Ninh viết lại ký ức chiến tranh
Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là cuốn tiểu thuyết còn thiếu trong vành đai rộng lớn những tự sự về các cuộc chiến Đông Dương. Sắp phát hành bởi NXB Neri Pozza, được Carlo Prosperi dịch sang tiếng Ý từ bản tiếng Anh, cuốn tiểu thuyết này được xem là tác phẩm đầu tiên dám tháo tung chủ nghĩa chiến thắng từng thống lĩnh diễn ngôn chính thống tại Việt Nam. Hoa Kỳ rút quân năm 1973, chính phủ miền Nam cầm cự đến ngày 30 tháng 4 hai năm sau đó, khi xe tăng miền Bắc và du kích Việt Cộng tiến vào Sài Gòn, thủ đô của miền Nam, được Washington hậu thuẫn.
Phía Mỹ đã trải qua nhiều giai đoạn để đối mặt và tái cấu trúc chấn thương chiến tranh: từ tường thuật trực tiếp trên mặt trận, đến một khối lượng khổng lồ hồi ký, tiểu thuyết, phim ảnh, gần như lấp đầy toàn bộ trí tưởng tượng về chiến tranh cho nhiều thế hệ, đồng thời hòa trộn với nhiều thể loại khác. Điều đó tất yếu, bởi sự kiện này, nói chính xác là một bi kịch, đã làm biến đổi sâu sắc xã hội Hoa Kỳ và hình ảnh của chính họ.
Ở Việt Nam, ánh hào quang của chiến thắng được kể lại qua một lăng kính nhất quán, trong đó những cách diễn giải khác thường bị gạt ra ngoài lề. Chính tiểu thuyết của Bảo Ninh, xuất hiện năm 1991 như một luận văn tốt nghiệp ngành viết văn, được chuyền tay một cách thận trọng ở Hà Nội và các nơi khác, đến tay độc giả tiếng Anh vào năm 2004 qua một bản dịch được chỉnh sửa, từng được phát hành dưới cái tên khác Thân phận của tình yêu, mãi cho đến năm 2006 mới trở về cái tên đúng của nó. Trong một bối cảnh mà chiến thắng chống Mỹ vẫn là nền tảng của tính chính danh quốc gia, thì “tư tưởng thất bại” mà tác giả bộc lộ bị xem là không thể chấp nhận, đặc biệt khi ông viết:
Mẹ kiếp, hòa bình chẳng qua là thứ cây mọc lên từ máu thịt bao anh em mình, để chừa lại chút xương. Mà những người được phân công nằm lại gác rừng le là những người đáng sống nhất.
Không thể thừa nhận rằng “niềm hy vọng của những ngày đầu hậu chiến đã tan biến ngay lập tức.”
Dù đã có những hồi ký phản ánh phía Việt Nam của cuộc chiến, Bảo Ninh vẫn đi thêm một bước. Ông để cấu trúc phi tuyến tính của tiểu thuyết hấp thụ quá trình gột rửa của một thiên anh hùng ca tập thể lẫn cá nhân kéo dài vô tận, được hóa thân trong nhân vật Kiên, bản ngã thứ hai của ông: “Năm 1965, khi chiến tranh nổ ra”, Kiên mới mười bảy tuổi, “được gọi nhập ngũ vào mùa thu và đưa ra mặt trận miền Nam.”
Kiên trải qua các trận đánh được mô tả bằng thứ hiện thực sống động như văn chương chiến tranh Mỹ, từ Dispatches của Michael Herr đến Matterhorn của Karl Marlantes hay Những thứ họ mang của Tim O’Brien. Thế nhưng, nét biến dạng biểu hiện1 mà Bảo Ninh thổi vào chất liệu ấy nhanh chóng trượt sang cõi mộng: nhân vật chính “cảm thấy chiếc xe tải đang chạy âm thầm, không động cơ, không tài xế, trên những con đường rừng hoang vắng”; mặt phẳng thực tại nghiêng lệch, các đồng đội hóa thành dàn đồng ca câm lặng, những cuộc gặp gỡ nhuốm màu ẩn dụ.
Mạch truyện đưa Kiên ngược xuôi dòng thời gian: sống trong chiến tranh, hồi tưởng khi quay về năm 1976, tức một năm sau khi chiến tranh kết thúc, để tìm hài cốt đồng đội; rồi lại thấy mình là cậu thiếu niên đang yêu Phương, bạn gái cùng tuổi; rồi lại là kẻ sống sót trôi dạt nhiều năm sau, cuối cùng mới hiểu được lời cha về “nỗi đau bất diệt” truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Tiểu thuyết của Bảo Ninh là một tiểu thuyết chiến tranh, và hơn thế, là tiểu thuyết về thời hậu chiến. Chính sau đó, quá khứ mới phát huy hết sức hủy diệt của nó. Khi đang “xem một bộ phim Mỹ về chiến tranh Việt Nam” trên tivi, Kiên cảm thấy mình sẵn sàng “lao mình lần nữa vào máu lửa, vào thảm sát và bạo lực”. Chính sau đó, sự thật mới lộ diện với trọn vẹn tính huỷ diệt của nó: “Tương lai đã lừa dối chúng ta ngay từ lúc ấy”.
Tại đây, văn chương của Bảo Ninh chuyển hướng sang diễn ngôn siêu văn chương2: nhân vật là người kể chuyện, “viết về cuộc chiến tranh một cách rất tuỳ ý như thể ấy là một cuộc chiến tranh của riêng anh. Và cứ thế, nửa điên rồ, Kiên lao đầu vào chiến đấu lại cuộc chiến của đời mình một cách đơn độc, phi hiện thực, một cách cay đắng, đầy rẫy va vấp và lầm lạc.”3 Hòa bình, sau khi để lại cho những người sống sót cảm giác “choáng váng và loạng choạng,”4 chỉ đem đến “đau đớn nhiều hơn là mừng vui.”
Tương lai đã chết, chỉ còn lại quá khứ
“Quá khứ thì không bao giờ kết thúc, quá khứ luôn trung thành mãi mãi.”5 Nhớ lại, vì vậy, trở thành một hành vi hy vọng “ngược chiều”, hướng về phía sau – một sự tự nhận diện trong mọi điều đã tồn tại trước chiến tranh: vẻ lộng lẫy của Phương và làn da nàng, buổi tắm dưới hồ, những cuộc hẹn trốn tránh, và những ước mơ tuổi trẻ. Kiên “nhìn cuộc đời mình cho đến ngày ra trận, như một người lính trẻ tuổi, như thể đó là một ngày dài vô tận, dịu dàng, với bầu trời trong xanh.”
Ở phần hai, tiểu thuyết chuyển mình sang thể loại bi ca, với những trang văn mang âm điệu trữ tình. Kiên và Phương sống trong một mối tình đẹp đến xé lòng, rồi sẽ bị tan vỡ bởi chuyến đi đầy bi kịch về phương Nam – hướng đến chiến tuyến, nơi khải huyền của chiến tranh đánh dấu sự kết thúc của tuổi ngây thơ. Một vết rách không thể lành cho Kiên, và đặc biệt là cho Phương, người có thể đã chọn không đối diện với bạo lực, nhưng rốt cuộc lại tự nguyện dấn thân vào trải nghiệm đó.
Sau chiến tranh, Phương có những người đàn ông khác, biến mất khỏi đời Kien. Nhưng Phương của ngày xưa vẫn luôn ở gần, trong tầm với của ký ức: nàng sống dưới dạng khát khao, như thể được tạo nên từ chất liệu của giấc mơ. “Hạnh phúc, đơn giản là, đã thuộc về quá khứ”: có lẽ chỉ trong những lần giáp lá cà giữa bùn lầy và dưới bom đạn – những chiếc máy bay sát thương “như cơn cuồng phong bằng thép đen”, Kiên/Bảo Ninh mới có thể chiêm nghiệm chính mình, như một bản thể ba ngôi hợp nhất: đã từng là ai, đang là gì, và có thể đã là người như thế nào.
Il dolore della guerra [Nỗi đau chiến tranh], Bảo Ninh
Carlo Prosperi dịch từ bản tiếng Anh của Phan Thanh Hảo và Frank Palmos, do NXB Neri Pozza phát hành; 251 trang, giá 20 euro. Có mặt tại các hiệu sách từ ngày 25 tháng 4.
Tác giả
Tên thật của Bảo Ninh (Hà Nội, Việt Nam, 1952) là Hoàng Ấu Phương
Box: Nguyễn Bình Phương – Những mối tình ở Hà Nội giữa ngã ba thế kỷ
“Hà Nội không còn là thành phố như xưa nữa.” Nguyễn Bình Phương (sinh năm 1965) đã nói điều đó qua giọng kể của nhân vật trong cuốn tiểu thuyết Một bầu trời khác (Un altro cielo) [tức Trí Nhớ Suy Tàn], dưới sự chăm sóc biên soạn của Michela Nessi6 và do nhà xuất bản Atmosphere phát hành (119 trang, giá 16 euro), cũng như qua nhân vật chính, người luôn được gọi là “em” xuyên suốt cuốn sách.
“Chỉ vài tháng nữa em sẽ tròn hai mươi sáu tuổi”, đó là câu mở đầu của cuốn tiểu thuyết mang đậm sắc thái hiện thực huyền ảo, được viết bằng ngôi thứ hai. Nhân vật chính của Một bầu trời khác, ra mắt năm 2020, trải qua hai mối tình – khác biệt nhưng đều mãnh liệt. Nàng luôn ở thế chênh vênh giữa hoài niệm về quá khứ và một khát khao đổi thay mơ hồ, tại ngã rẽ của hai thế giới (được hiện thân qua hai người tình), của hai mùa (thời sinh viên và hiện tại), và của hai kỷ nguyên (thế kỷ 20 và 21).

Bài: Marco del Corona
La Lettura là phụ san văn hóa-văn học-nghệ thuật của nhật báo Ý Corriere della Sera, ra mắt năm 2011, tiếp nối truyền thống của ấn phẩm cùng tên từng tồn tại từ đầu thế kỷ 20. La Lettura tập trung giới thiệu các tiểu luận, phê bình văn học, tác phẩm nghệ thuật và phỏng vấn tác giả, trở thành một trong những diễn đàn trí thức uy tín bậc nhất ở Ý.
“Biến dạng biểu hiện” (la torsione espressionista) là thủ pháp thường thấy trong nghệ thuật biểu hiện, khi hình ảnh hoặc trải nghiệm được bẻ cong, phóng đại hoặc xuyên tâm hóa nhằm phản ánh trạng thái cảm xúc bên trong nhân vật, hơn là tái hiện hiện thực một cách khách quan.
Metaletteraria (tạm dịch: “diễn ngôn siêu văn chương”) là khái niệm chỉ những yếu tố trong tác phẩm văn học có tính tự phản chiếu, khi văn bản không chỉ kể chuyện mà còn suy tư về chính bản chất của văn chương, hành vi viết, hoặc cấu trúc tự sự. Đây là hình thức tự ý thức về tính chất văn học của chính tác phẩm. Dù khá tương đồng, metaletteraria khác với metafiction ở trọng tâm phản tư: metafiction thường nhấn mạnh đến tính hư cấu và sự phá vỡ ảo tưởng kể chuyện, trong khi metaletteraria tập trung vào diễn ngôn văn học, tức là, tác phẩm viết về chính văn chương, về việc viết, đọc, hay vai trò của nhà văn trong lịch sử văn học.
Đây là một câu rất hay được trích. Bản tiếng Ý không hay bằng, tạm dịch: “Và trong một cơn điên cuồng tưởng chừng vô lý, anh lại chiến đấu những trận đánh xưa, trao cuộc chiến cho cuộc chiến của chính đời mình, đơn độc, phi thực, cay đắng, nghẹn đặc.” (E in un apparente accesso di follia, combatte di nuovo le sue battaglie, consegna la guerra alla guerra della propria vita, solitaria, irreale, amareggiata, balbettante.)
Câu đúng là: “Hòa bình ập tới phũ phàng, choáng váng đất trời và xiêu đảo lòng người”
Mấy câu này về sau chịu không rà được bản gốc.
Trên bìa sách ghi “a cura di Michela Nessi”, vì thế không rõ Michela Nessi hiệu đính, viết lời tựa, chú thích hoặc bình luận, hay đơn giản là chịu trách nhiệm nội dung xuất bản (nhưng không nhất thiết là dịch giả).