Ở bài trước, tôi đã lấy Đông Berlin và bức tường làm ví dụ để trình bày sơ lược cho cách hiểu của tôi về khái niệm mùi.
Đó có thể là sự hoài nhớ, nỗi đắng cay, sự thất vọng, hay một niềm hy vọng. Những nỗi niềm đó mang tính cá nhân, nhưng đều gắn với một “mùi”, và tất cả những ai từng có hoàn cảnh hay trải nghiệm tương đồng đều mang máng hiểu cái “mùi” đó là gì.
Tôi muốn nói đến “mùi” không phải như cách hiểu thông thường qua cách đọc của khướu giác, như mùi chả giỏ chiên, hay mùi hoa nhài, mùi ổi. Cái tôi nói đến một dạng mùi cũng xuất phát từ các giác quan của chúng ta, những thứ ta đã từng chạm vào, từng nghe, từng ngửi, từng sở hữu, từng bỏ quên—nhưng chúng đã vun trộn với nhau và trở thành một “mác” trong ký ức. Chẳng hạn, mùi một bài hát của Cẩm Ly, hay mùi mái tôn giữa trưa hè, hay mùi mặt đất sau cơn mưa. Như tôi nhắc đến trong bài trước, “mùi” ấy có thể xuất phát từ cảm nhận chung, chẳng hạn:
Cảm giác tuổi thơ chúng ta là một nơi an toàn, yên ắng
Cảm giác được học trường chuyên là một niềm hạnh phúc
Những cảm giác đó vừa mang tính cá nhân vừa mang tính tập thể. Chúng mang tính tập thể là vì ai cũng có thể hiểu rằng ta đang nói đến điều gì và cảm giác đó mang máng là gì. Nhưng cũng mang tính cá nhân vì mỗi người cắt nghĩa một kiểu. Nói đúng hơn, mỗi chúng ta sẽ tự huyễn hoặc theo một cách khác nhau, vì mỗi cá nhân mang (và gánh) theo mình một quá khứ rất khác. Mỗi quá khứ riêng quy định chúng ta cảm nhận thế nào là an toàn, yên ắng, hay hạnh phúc.
Ba tính chất của “mùi”
Như tôi đặt nghi vấn trong bài trước: cảm nhận của chúng ta về “mùi” có thực đúng không? Ý niệm đúng là một khoảng vô chừng, nhưng đồng thời cũng có tính tập thể. Tôi lấy ví dụ về một thứ mùi đúng như ta nghĩ, nhưng lại không hẳn là thực. Một câu mà hầu như bậc phụ huynh nào cũng từng nói với con cái là: “Thời của bố mẹ khổ lắm!”
Câu này đặc biệt phổ biến đến nỗi, tôi tin là hầu hết chúng ta đều nghĩ rằng thời bố mẹ mình đúng là khổ thật. Ta cũng hiểu rằng thời mà câu nói trên trỏ đến là thời bao cấp, thời sau khi chiến tranh vừa kết thúc, hoặc kéo dài một chút đến một vài năm sau khi Liên Xô sụp đổ. Nền kinh tế kiệt quệ, vì thế mỗi một đời sống đều gắn trực tiếp với cái nghèo, nhưng mỗi cá nhân chứng kiến “cảnh nghèo” theo cách khác nhau.
Song nghèo không có nghĩa là khổ. “Nghèo” là phạm trù vật chất: không có tiền mua một bịch gạo, hay nhà bị dột, hay áo rách. Vật chất dễ so sánh: tôi nghèo hơn bạn vì cả tuần tôi đi học chỉ bận đúng một bộ quần áo, còn bạn có ba bộ. “Khổ” lại là phạm trù cá nhân và cảm tính. Nếu đi uống bia với Elon Musk, chúng ta vẫn có thể nghe anh ta than khổ, rằng “Tôi cũng đi cày khổ lắm chứ”, hay đại loại, tức là ai cũng có thể than khổ.
Vì thế câu nói “Thời của bố mẹ khổ lắm!” cho chúng ta một hình dung sai về mùi, rằng thời đó khổ hơn thời bây giờ. Có bạn sẽ tranh cãi, “khổ lắm” không đồng nghĩa với “thời đó khổ hơn bây giờ”, nhưng các bạn thử cãi với các bậc phụ huynh rằng “Thời của bọn con cũng khổ chứ!” tôi đảm bảo câu trả lời sẽ là: “Chúng mày biết gì về khổ mà nói?” Túm lại, ai cũng sẽ có hình dung mang máng về mùi “khổ”, nhưng để cảm nhận cụ thể và đích đáng về mùi đó, ta phải đặt cảm nhận đó vào một khung không-thời gian nhất định và bối cảnh xã hội-tâm lý nhất định.
Như vậy, ở khía cạnh văn hóa, “mùi” có những tính chất sau đây (và tôi sẽ dần tháo gỡ):
Mùi mang tính đồng phục. Mùi là aura tỏa ra từ hành vi tập thể. Và đối lại, hành vi tập thể cũng quy định các đặc điểm của mùi.
Mùi có tính mắc míu. Mùi không đứng đơn lẻ, mà nó dính líu nhíu vào một cơ số thứ khác.
Mùi có cái gì đó kafkaesque. Nó bừa bộn và bức thiết, nếu không tuân theo ta sẽ thấy ngay ngáy trong người. Sinh ra từ một trật từ có kiểm soát, nhưng đôi khi nó tùy hứng và vô tổ chức. Mùi còn có tính ăn vạ.
Tôi sẽ bàn về từng tính chất một. Ở bài này, chúng ta tập trung vào điểm đầu tiên.
Tính đồng phục của “mùi”
Không cần nói đâu xa, ngay khi đặt câu hỏi “mùi của ngày xưa” hay “mùi của thời bao cấp” là gì, ta đã thấy ngay sự hiện diện của tính đồng bộ. Dạo một vòng showwbiz và các sự kiện văn hóa, tôi đã tìm thấy một vài câu trả lời phổ biến.
Mai Ngọc tái hiện hình ảnh MC thời sự
Triển lãm “Thương nhớ thời bao cấp”
Ở album ảnh của Mai Ngọc, ta thấy trong bố cục mỗi khung hình là các yếu tố cần phải có, cần phải giống nhau từ ngày này qua ngày khác: logo của đài truyền hình, màu phông phía sau, cách cô phát thanh viên búi tóc, thiết kế của trang phục. Dù rằng màu bộ áo dài có thể khác đi để tránh nhàm chán, nhưng màu chủ đạo vẫn là màu xanh của VTV. (Tôi không biết gọi đó là màu xanh gì nên tạm gọi là xanh VTV.)
Công cụ thiết kế web cho tôi biết đó là màu xanh thép (steelblue).
Lưu ý rằng màu xanh này cũng khá tương đồng với màu xanh chủ đạo của hãng Hàng không Quốc gia (Vietnam Airlines). Tôi tra màu xanh của chiếc máy bay trong bài này thì ra kết quả dưới đây. Chỗ khoanh đỏ cho thấy sự khác nhau giữa hai màu, nhưng về cơ bản vẫn là màu “steelblue”. (Đây cũng màu áo dài chủ đạo của Vietnam Airlines, trước khi họ đưa ra những mẫu áo dài mới vào năm 2015.)
Qua đó ta đã thấy màu sắc và các đặc điểm hiển hiện về chất đóng vai trò thế nào trong việc tạo một “khung hoài nhớ” về mùi. Tương tự, trong triển lãm tranh “Thương nhớ thời bao cấp”, màu sắc cũng để lại ấn tượng mạnh: gam màu chủ đạo sẽ xoay xung quanh màu vàng khaki như dưới đây.
Tôi không định đi sâu vào “mùi” của thời bao cấp. Vì không sống qua thời đó nên dù nói thế nào cũng sót đi phần quan trọng nhất là cái cảm giác của chính mình. Nhưng tôi muốn phân tích một vật để làm rõ tính đồng phục của mùi. Có thể xem đối tượng đó là vật tượng trưng cho cả một giai đoạn hậu bao cấp, giai đoạn mà nền kinh tế phát triển đều và cởi mở, thành phần buôn bán nhỏ giàu lên và trở thành giới “tiểu thương”, trẻ em được đi học và chăm sóc tốt hơn, và cái nghèo không còn bám dính vào tất thảy mọi ngóc ngách. Vật ấy hiện diện ở khắp nơi trong quãng năm 1990-2020, đó là chiếc ghế nhựa.
Ghế nhựa có nhiều loại
Nếu gúc “ghế nhựa”, ta sẽ có một dây (phong phú) các loại ghế nhựa phổ biến ở Việt Nam, xuất hiện ở khắp nơi trong xã hội, từ trong nhà ra ngoài ngõ, từ quán ăn đến hội trường tỉnh ủy, chẳng hạn như dưới đây:
Thứ tôi muốn bàn đến, cụ thể hơn, là ghế nhựa loại thấp, hay gọi đúng tên phân loại của nó là “ghế lùn vuông”. (Từ này rất khó đọc nhanh mà không bị líu.) Loại ghế nhựa này phổ biến hơn cả, vì có thể được dùng cho đủ mọi tầng lớp, và thích hợp cho đủ loại không gian sự kiện, từ lễ khai giảng trong trường tiểu học, đến quán cà phê bệt và cà phê đường tàu, từ gánh hàng rong trong công viên cho đến các sự kiện tầm quốc gia. Ghế nhựa lùn được dùng từ trong sân trường cho tới vỉa hè của người đi bộ. Hầu hết các quán cơm tấm vỉa hè tôi từng ăn đều dùng loại ghế này.
Để dễ phân tích, chúng ta hãy tập trung vào mẫu cụ thể của “ghế lùn vuông” sau đây:
Tại sao lại là “ghế lùn”, mà lại còn “ghế lùn vuông”? Ta hãy đi vào hai đặc tính.
Đặc tính “lùn”
Lùn, vì đơn giản, nó không thực sự là ghế theo cách hiểu phổ quát và thông thường—tức là ghế để chúng ta ngồi nghỉ, làm việc hay ăn cơm. Tức là, nó không phải ghế để “an tọa”, vì ngồi nghỉ trên ghế này rất nhọc: người ta không thể ngồi thẳng lưng được lâu, mà phải khom lưng xuống, và tốt nhất là dùng cùi chỏ tay chống vào đầu gối, để phần tay và vai đỡ lực cho phần đầu và nửa trên thân mình. (Dù làm như vậy thì cổ, cột sống và vai đều sẽ gặp vấn đề.) Chúng ta cũng không dùng nó để ngồi làm việc. Ngồi ăn thì được, nhưng cần phải đi kèm với cái bàn nhựa sinh ra là để dành cho loại ghế này. Tôi khỏi đưa hình, vì nói đến đây ai cũng hình dung được cái bàn nhựa ấy trông ra sao.
Trong tiếng Việt có từ “ghế đẩu”, tức là loại ghế nhỏ không có lưng tựa, dùng cho một người ngồi. Nhưng ghế đẩu thông thường cần phải cao, và thường có thanh bắc ngang ở dưới để gác chân. Theo hình dung của tôi, người ta dùng ghế đẩu để ngồi ở quầy bar, hoặc ngồi đánh đàn; khó có thể dùng ghế đầu để ngồi làm việc, nhưng ở một số quán cà phê cách tân thì vẫn có. Túm lại, ghế đẩu phải là loại ghế cao cao như trong hình này (các bạn ngồi tầng trên).
Trong tiếng Anh, từ đúng để gọi chiếc ghế này là stool thay vì chair. Trong bài báo này ở trang Rest of World, tác giả phân tích vì sao khu vực Đông Nam Á là nơi khó làm ăn và khởi nghiệp nhất trên quả đất. Đó là vì người dân mỗi nước tuân theo những tập quán khác nhau, và những thói quen cũ thường rất khó bỏ, chẳng hạn như đi xe ôm. Xe ôm vẫn tồn tại chung với Grab và các hãng vận chuyển khác, không phải vì rẻ hơn hay tiện hơn, mà vì người dùng đã quen với phương tiện ấy. Khó từ bỏ xe ôm cũng là quen với một dạng “mùi”. Mùi cũ và thân thuộc làm bạn cảm thấy yên tâm, khác với mỗi lần đi Grab bạn gặp một tài xế khác nhau.
Trong bài báo có đoạn tâm sự của cô Chi, một người lái xe ôm tầm 50 tuổi đã gắn bó với con xe Dream từ hai mươi năm nay. Tác giả phỏng vấn khi cô Chi đang ngồi trên một chiếc ghế thấp màu xanh, trong một hàng nước ở phố cổ Hà Nội. Chiếc ghế này được gọi là stool.
Từ stool làm tôi nhớ đến một truyện mang tính ngụ ngôn của Franz Kafka, nhà văn Séc viết tiếng Đức. “Trước Pháp luật” là một truyện rất ngắn, nằm trong cuốn tiểu thuyết dang dở “Vụ án” (nó nằm ở vị trí như sau, trong một bản tiếng Anh tôi tìm được). Nội dung bản thân truyện ngắn này đã là một khối độc lập, vì nó từng được Kafka in riêng trong tuần báo Do Thái Selbstwehr ở Praha.
Dưới đây là bản dịch của Lê Chu Cầu (Nhã Nam, 2015). Vì chưa xin phép nên tôi không đăng hết truyện, các bạn có thể đọc tiếp với bản tiếng Anh hoặc bản gốc tiếng Đức (miễn phí). Chỗ mũi tên là bắt đầu truyện.
Các bạn để ý dòng thứ hai trang 250: “Người gác cửa đưa anh nhà quê một chiếc ghế đẩu để y ngồi bên cạnh cửa”. Tương ứng với từ “ghế đẩu”, trong bản tiếng Anh ta có stool và tiếng Đức là Schemel, tức là không phải chiếc ghế thông thường theo nghĩa chair hay Stuhl. (Xét về từ nguyên, có thể Stuhl và stool là cùng gốc, nhưng tôi chưa có thời gian kiểm chứng.) Và sau đó, người đàn ông quê mùa ngồi chờ ngắc ngoải trên chiếc ghế ấy “ngày này sang ngày khác, năm này qua năm khác”.
Mặc dù không biết trong đầu Kafka chiếc ghế đẩu này cao hay thấp, nhưng người đọc có thể hình dung ra sự “nhọc” khốn cùng của anh nhà quê: phải chờ cho đến già mà vẫn không được đi qua cửa Pháp Luật, lại còn phải ngồi trên chiếc ghế không có chỗ tựa lưng. (Bản hoạt hình năm 1962 của Orson Welles không có chi tiết này.) Nhưng bù lại, kiểu ghế ấy tiện mang vác, nhẹ và không cồng kềnh, phù hợp cho việc chờ đợi ngắn hạn. (Nhân vật của Kafka chờ cho đến già là vì số nhọ, chứ nếu biết chờ đến già thì ngay từ đầu anh ta đã chẳng chờ.)
Tính tiện lợi liên quan đến đặc tính thứ hai của chiếc ghế.
Đặc tính “vuông”
Tạm gác lại chuyện lùn, hãy xét đến các đặc điểm vật lý của ghế.
Ghế được làm bằng nhựa, vì thế nhẹ và tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu nhất có thể. Nhựa còn có thể chịu nắng mưa tốt hơn gỗ. Nhưng bù lại thì hay gãy. Mập ngồi vài lần là gãy.
Ghế có mặt hình vuông, cấu trúc lập phương, bốn chân và bên trong rỗng ruột. Tức là cái ghế thực ra chỉ là một cái khung, để dễ xếp chồng lên nhau, và việc xếp chồng lên nhau được tối ưu hết mức có thể. Đó là lý do ở mặt trên luôn có cái lỗ ở giữa: để dễ xếp vào và gỡ ra.
Cả hai đặc điểm trên cho thấy tính kinh tế được tối ưu của “ghế lùn vuông”. Tính kinh tế khiến chiếc ghế này trở thành lựa chọn không thể thiếu cho không chỉ các hàng cơm tấm hay cà phê bệt ở vỉa hè, mà còn cho trường học dùng trong các buổi cần quy tụ toàn thể học sinh dưới sân trường. Không ít người trong chúng ta đã trải qua cảnh này thời đi học: mỗi lần chào cờ đầu tuần mà lớp mình trực, các bạn nam phải đi lấy các chồng ghế nhựa, sau đó bày ra ngay hàng thẳng lối cho học sinh các lớp ngồi. Dù có một nghìn chiếc ghế thì việc bày ra này cũng không tốn nhiều sức lực.
Quả thực, ghế lùn vuông có thể được dùng cho rất nhiều người cùng một lúc. Ngần ấy ghế (giả sử một nghìn cái đi) có thể được bày ra và xếp vào nhanh chóng, tiết kiệm sức lực và thời gian và không gian hết mức có thể. “Ghế lùn vuông” là loại ghế tối ưu nhất để dành cho việc đó—việc cần huy động một tập thể, thực hiện một hành động tập thể trong một khung không gian vừa vặn (sân trường) và khung thời gian giới hạn (một tiếng buổi sáng). Điều này dẫn tới một mục đích khác, cũng mang tính tập thể, của ghế lùn vuông, đó là vai trò tạo cảnh.
Vai trò tạo cảnh hiểu đơn giản là thế này: Chính vì ghế lùn vuông giúp tiết kiệm chi phí, nhân công và bày ra xếp vào tiện lợi như thế, nên lễ chào cờ có thể diễn ra hằng tuần, hay thậm chí hằng ngày, và có thể huy động được toàn bộ học sinh trong trường, tụ họp trong không gian giới hạn của khoảnh sân. Trước lễ chào cờ, ghế được nhanh chóng bày ra sân trường theo vị trí cố định (dễ mà, vì lần nào cũng thế). Sau đó, cảnh bắt đầu. Sau khi lễ chào cờ kết thúc, ghế được xếp gọn lại thành chồng, các chồng ghế được xếp vào kho, hoặc được đặt trong các hốc dưới chân cầu thang. Khi đó, cảnh kết thúc.
Ta vẫn nghĩ ghế nhựa là thứ xuất hiện nhan nhản, được xếp thành chồng, được nhét vào xó, chẳng đáng quan tâm. Nhưng nói không ngoa, những chiếc ghế nhựa có thể đã quy định cấu trúc của buổi chào cờ, cách thiết kế một sân trường, cách xếp đặt gánh hàng rong, cách thiết kế cảnh quan công cộng. Một vật thấp nhỏ và rẻ tiền, nhưng đóng vài trò lớn trong việc tạo ra “mùi” của cả một thời.
(Ở bài sau, tôi sẽ nói thêm về vai trò tạo cảnh của những chiếc ghế, và qua đó bàn về mối quan hệ giữa tính đồng phục và sự mất chất. Bonus chuyện Hilary Mantel nhận xét về trang phục các nàng dâu hoàng gia.)