Ngày 24 tháng Hai là mốc gọi ta quay trở lại hình hài đơn giản và chân phương nhất của việc viết: viết cho chính mình, viết vì tình yêu, và từ vị trí khiêm nhường của mỗi cá nhân.
Ngày 24 tháng Hai vừa qua sẽ còn được nhắc đến nhiều, dù người nhắc có đứng ở vị trí nào chăng nữa. Đó là ngày mà lương tri của con người được gọi tên. Mỗi cá nhân đều phải gắn mình với một lựa chọn trong tương quan với kẻ khác. Bản thân ta có thể không tự khắc nhận ra sự thức tỉnh. Nếu như nó không đến như một cú sốc vào một buổi sáng thức dậy, nó có thể đến một cách chậm rãi và từ tốn, ngày qua ngày, nhưng đều xuất phát từ một dấu mốc. Từ sau ngày đó, lương tri của mỗi người, dù thừa nhận hay không, đều đã mang màu sắc của một thời đại. Từ sau ngày đó, chúng ta sẽ dùng lương tri ấy để đối thoại, để hiểu hơn bản thân và để người khác biết mình, giống như một thẻ căn cước. Để đánh dấu một sự đổi thay nào đó, sự đổi thay có thể là chậm rãi mà cũng có thể là bước ngoặt, phải chăng mỗi chúng ta nên bắt đầu viết nhật ký, ghi lại những thời điểm hệ trọng từ góc nhìn của mình, từ vị trí cơ bản nhất của một cá nhân - đó là một dấu chấm, một hạt bụi - với những gì đang diễn ra ở thế giới ngoài kia.
Tôi nhất định sẽ không biên những dòng này trên Facebook. Cõi mạng đang dần lộ rõ ra là một không gian “toxic”, i.e., độc hại, tức là làm người ta “chuội đi” vì những mệt mỏi và nhức nhối khôn nguôi mà cảm xúc tiêu cực mang lại. Những người mang quan điểm trái chiều vỗ mặt là thiếu hiểu biết, là vô đạo đức, chì chiết nhau, thóa mạ nhau, nhìn vào cuộc đời lẫn lối suy nghĩ của nhau đầy cay đắng, như thể xem những ai không đồng quan điểm là kẻ thất bại, sai trái, hư hỏng, là bị tẩy não, u tối và không còn lối thoát. Ngay cả tôi cũng có những lúc cảm thấy như vậy, trước những ai đang cổ súy hay dung túng cho một cuộc chiến tranh vô lối. Họ không chỉ tung hô hành động bạo ngược của tên lãnh chúa, họ còn dửng dưng và cười cợt mỉa mai trước những gì người dân ở địa vị yếu thế hơn bỗng dưng phải gánh chịu.
Liệu có lý lẽ gì có thể thuyết phục họ, khi mà họ nhất định phải đeo cho mình chiếc áo khoác của kẻ “biết tuốt”? Họ biết những lý do tại sao Ukraine đáng phải bị trừng phạt, họ có thể thay mặt Putin giải thích vì sao người dân Ukraine cần phải được gỡ vòng xiềng xích từ chính phủ “nazi” đang dẫn dắt họ, hay là đất nước Ukraine đáng được “gấu Nga” dạy cho một bài học. Một cuộc chiến như vậy, theo họ, là chính nghĩa và cần thiết. Con người, cho đến tận năm 2022, vẫn không thay đổi nhiều lắm. Người ta vẫn còn để cái mồm đi trước lương tri.
Tại sao việc viết, và viết nhật ký, lại quan trọng đối với mỗi cá nhân, đặc biệt là từ cái mốc của ngày 24 tháng Hai? Có lẽ, suy cho cùng, việc viết xuất phát từ nhu cầu phát ra tiếng nói của lương tri. Khác với nhu cầu cấp bách cần phải phát ngôn, việc viết đặt ra trước mặt chúng ta một tấm gương. Chúng ta nhìn vào bản thân ta qua tấm gương đó, qua phương tiện của những con chữ. Những con chữ, cũng như lời nói, có thể là lớp áo khoác, lớp phấn trang điểm giúp diện mạo của chúng ta tinh tươm hơn, chỉn chu hơn, dễ “đọc” và dễ được hiểu hơn. Nhưng đồng thời, tấm gương xuất hiện trong quá trình biên ra con chữ giúp ta đi cùng một nhịp, một phách với những gì thuộc về tâm hồn, những gì mà lương tri ta đang thỏa ước với lương thức chung của xã hội hiện đại.
Cái mồm vốn có thói quen lanh chanh, táy máy, không làm được điều đó. Tấm gương soi vào nội tâm giúp việc viết cho chính mình khác với việc biên một cái “tút” trên Facebook. Mạng xã hội giúp người ta công khai quan điểm của mình đơn giản nhất có thể, và lan tỏa nó với nhiều người khác nhanh nhất có thể. Người đọc dễ nhấn vào nút like hay share khi mà dòng tút đánh động vào mối dây cảm xúc, và bong bóng bộ lọc giúp những người có quan điểm tương đồng dễ tìm thấy nhau hơn, dễ đọc được nhau hơn. Người ta cũng lại dễ share bài và comment phản bác khi gặp ý kiến trái chiều, và vì nỗi tức tối và bực dọc ụp vào mắt, họ không thể ngừng phản ứng. Thuật toán lan tỏa của mạng xã hội ngày càng đẩy những phản ứng đơn thuần về mặt cảm xúc về phía cực đoan. Đẩy cảm xúc của người dùng về chỗ cực đoan lại càng trầm trọng đối với người dùng tiếng Việt, vì Việt Nam là nước có tỉ lệ người dùng Facebook trên dân số đứng nhì thế giới, chỉ sau Philippines.1
Nếu như mạng xã hội là nơi tiếng nói của chúng ta dội ra ngoài, thì nhật ký hay việc viết cho chính mình là nơi tiếng nói của mỗi người dội vào trong. Đứng giữa một thế giới đầy hỗn mang và bất ổn như những gì ta chứng kiến trong ngày 24 tháng Hai vừa qua, những gì ta muốn nói thật tâm mang một sức nặng to lớn. Bạn thể hiện quan điểm về Ukraine trên Facebook, một tương tác xa xôi nào đó có thể sẽ hỏi, quý vị nhân danh điều gì, một cuộc chiến ở xa chúng ta như thế, tại sao lại phải khiến nhiều người phải kêu la? Đứng giữa một cõi công cộng, dù là ở trên mạng, cũng giống như bạn đang đứng giữa một quảng trường lớn, bạn sẽ cần phải thuyết phục người khác rằng bạn nhân danh cái gì khi muốn rót lời nói vào tai những người đi qua. Có thể bạn chịu chấp nhận sự chỉ trích, nhưng khả năng cao là bạn sẽ phải nhận sự cáu bẳn từ những ai cảm thấy lời bạn không lọt tai. Khả năng cao là bạn chưa kịp hình dung ra trọn vẹn những sức ép ấy.
Việc viết dù ở bất kỳ nền tảng nào, về cơ bản đều xuất phát từ nhu cầu cất lên tiếng nói. Người ta có thể viết vì rất nhiều điều - vì thấu cảm, vì tha thứ, vì ai oán, vì dằn vặt. Đóng vai người phát ngôn độc lập giữa một không gian không hẳn quen thuộc với mình, ở một nơi như trên Facebook, người ta sẽ dần ngả theo xu hướng viết vì nỗi sợ. Có thể ta không nhận ra, nhưng có quá nhiều cơ chế phòng hộ hiện diện vào thời điểm ta nhấn vào nút “Gửi” để những dòng suy nghĩ của chúng ta được hiện diện trên mạng xã hội. Từ nỗi sợ bị hiểu sai, nỗi sợ bị người khác nghĩ mình kém, cho đến nỗi sợ về việc mình thể hiện chưa đủ. Sự gồng mình và đánh bóng bản thân là mặt ẩn giấu nhưng nguy hiểm hơn của nỗi sợ. Ta muốn mình hiện diện ở một đăng cấp khác, để răn dạy người khác về đạo đức, về nghệ thuật sống, để đả thông cho sự kém hiểu biết của họ.
Đã ở đâu rồi, cái sự viết vì tình yêu? Viết không vì sự thống khoái của thế đạo mạo tự phong, mà viết cốt vì sự khiêm nhường của một hại bụt, một dấu chấm nhỏ. Viết không phải để uốn nắn suy nghĩ của kẻ khác, mà viết để soi tỏ bản thân, để đứng trước gương và nhìn ra những khiếm khuyết của mình, để biết cái “tôi” đứng ở đâu: cái “tôi” khi ấy không đứng giữa quảng trường lớn của đông người qua lại, cái “tôi” chỉ đang đứng trước gương và đối diện chính mình. Cái tôi có thể nở nụ cười, cái tôi có thể nhăn nhó và méo mó và khóc, nhưng cái tôi ấy biết đâu là thật. Đừng viết vì nỗi sợ, mà hãy viết vì tình yêu.
Viết vì tình yêu đặt người ta vào cái thế khoáng đạt: ta muốn hiểu bản thân, ta muốn đọc được mình, và viết đơn thuần vì cái ham muốn được diễn tả cái gì đó đau đáu ở trong lòng. Mong muốn được diễn tả cái-gì-đó đau đáu thành lời luôn là một phần trong trạng thái lâng lâng của kẻ đang yêu đi trên một con đường bất định. Một kẻ viết vì sợ hãi sẽ muốn hóa giải sự bất định đó, uốn nắn nó thành một sự nuông chiều quen thuộc, và vì thế cắt đứt cả đoạn đường còn đang chờ phía trước. Phía trước ấy là nơi mà, nói theo câu thoại của Ygritte trong Game of Thrones: “you know nothing, Jon Snow.”
Có lẽ chúng ta nên tạm gác lại những tranh cãi, bất đồng quan điểm không bao giờ giải quyết được trong một sớm một chiều. Hãy lắng lại, thoát khỏi Facebook và sắm cho mình một cuốn sổ nhật ký…
Số liệu từ https://www.statista.com/statistics/268136/top-15-countries-based-on-number-of-facebook-users/