Có một cliché hay được viện dẫn để diễn tả sự vô nghĩa trong việc chỉ ra mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả, đó là chuyện con gà và quả trứng: con gà có trước hay quả trứng có trước? Dĩ nhiên đó là cách đặt vấn đề lập lờ, vì quan hệ nhân-quả luôn mang một ý nghĩa nào đó, chỉ là nó mắc míu đến mức nào. Lỗi ngụy biện ở đây là bản thân chúng ta đang không biết mình tìm kiếm cái gì: ta đi tìm việc con gà (mẹ) đẻ trứng, hay việc quả trứng được ấp và nở ra con gà (con). Luôn có sự khác nhau giữa gà mẹ và gà con, và vẫn luôn có yếu tố không-thời gian dính líu, chỉ là ta có muốn đi tìm hay không.
Henri Bergson, nhà triết học Pháp, có những phát biểu rất hay về hiện thực (reality). Theo ông, trí tuệ con người trình bày hiện thực dưới dạng sự sắp xếp và bố trí (và tái bố trí) các phân mảnh của nó. Những khung phân loại được dùng để gọi tên sự vật, hiện tượng, cây cỏ, núi đá, chim chóc, v.v. là một hình thức như vậy. Con người cần sự trật tự như một cách đối mặt với tự nhiên. Không có trật tự, họ sẽ ngã chuội đi mất; họ không chết ngay nếu không có trật tự, họ chỉ bị chuội đi, đần độn, ngẩn ra, mê muội — dĩ nhiên, con người cũng có từ riêng để gọi tên điều đó, chẳng hạn stupidity, hay một từ đang rất trendy trong tiếng Việt, là “vô tri”.
Cũng theo cách hiểu của Bergson, cái vô trật tự xuất hiện (như cách con người nhìn nó) khi người ta không tìm thấy ở đó trật tự mình muốn. Mọi thứ biến mất, nếu có, thực ra chỉ là sự thay thế. Cái vô trật tự xuất hiện không phải là khi trật tự biến mất, mà chỉ là trật tự cũ theo cách ta hình dung được thay thế bởi một trật tự khác, thứ ngay lúc đó ta không thể cắt nghĩa. Tương tự như vậy, “không có gì” chỉ đến sự thiếu vắng cái mà ta tìm kiếm hay trông chờ. Ta bước vào căn phòng, ta bảo trong phòng ấy “không có gì”, nhưng trong căn phòng trống ấy vẫn có bốn bức tường, có bụi bay, có mùi mốc của không khí kém lưu thông, v.v.
Trong bài bàn về nói ngọng, tôi đặt vấn đề lại tại sao phải xóa bỏ chuyện nói ngọng, coi đó là cái tật cần phải sửa — dĩ nhiên, “sửa” ở đây là xóa; liệu có cách sửa nào khác ngoài chuyện phải không nói ngọng? liệu còn mục tiêu ngoài khác ngoài việc toàn bộ người nói tiếng Việt không có ai nói ngọng, vì nói ngọng là sai, là tật?
Mọi tiêu chuẩn là một nỗi cô đơn thường trực
Ở đây, người ta mong muốn xóa bỏ một hiện tượng xã hội đã và đương có bằng việc chiếu nó theo một tiêu chuẩn, thứ được coi là đúng. Xóa bỏ, hiểu theo Bergson, không hàm nghĩa cái “sự” ấy biến mất, mà chỉ là có một “sự” khác thay thế nó. Tôi không có đủ lý do chính đáng để bảo rằng cần phải giữ nói ngọng, tôi chỉ muốn lập luận rằng không nhất thiết phải xóa nó (đây cũng là point chính của tôi trong bài kia). Ta đã đối xử tệ với nó bằng cách gán cho nó một cái tên: “ngọng”. Thêm việc xóa nó đi, ta đồng thời xóa luôn những câu hỏi có thể có, và cũng là xóa đi những sự trông chờ có thể có.
Sự trông chờ là biểu hiện cho cái đẹp vẫn còn đó. Đặt câu hỏi là cái đẹp của sự truy vấn, cũng như cởi mở với cái khác chính là đi tìm cái đẹp của con người. Nếu không biết đặt câu hỏi “Liệu Giáng sinh này Sài Gòn có tuyết không?”, làm sao ta hiểu được cái đẹp của Giáng sinh, của Sài Gòn, lẫn của tuyết?
Nếu bạn chưa bao giờ nói ngọng, bạn không thể hiểu nỗi bất yên khi thay vì phải nói như bình thường, ta phải nói làm sao cho không ngọng.
Nghe thì có vẻ chẻ sợi tóc làm tư, nhưng mối bất yên này thật ra rất phổ biến. Tôi nghĩ hầu như bất kỳ ai cũng từng thấy mình trong hoàn cảnh, mình không thoải mái nói những gì mình muốn nói chỉ vì (cái cảm giác) những người xung quanh nghĩ rằng mình nói một thứ gì đó khác họ, chẳng hạn như:
Một người Nam ra Hà Nội chơi
Một người Vũng Tàu (như tôi, nói một giọng không ra Nam cũng không ra Bắc) lên Sài Gòn học và sống
Một người Việt nói ngôn ngữ nước ngoài ở bất kỳ đâu
Một người Việt F2, sinh ra và lớn lên ở nước ngoài, về Việt Nam nói tiếng
Trong tất cả các trường hợp này, mọi người đều cần phải “mở miệng”. “Không mở miệng thì có mà câm à?”, một ai đó sẽ nói. Nhưng mở miệng và phát ngôn, hành vi cơ bản nhất của một con người tiến hóa và biết nghĩ, cái quyền cơ bản nhất của con người dầu cho khái niệm về quyền có linh động đến mức nào chăng nữa, sẽ không hề dễ dàng nếu như phải xảy ra trong một môi trường “hằn học” — tức là, ta sợ người nghe nhìn mình như ngoài trái đất, hoặc hơn nữa (với trường hợp nói ngọng), nghĩ mình sai, mình có tật.
Ai cũng phải mở miệng, nhưng điều quan trọng ở đây là “cái cảm giác” ở đó, ở ngay trước hành vi mở miệng, cái cảm giác rất khó để trở thành đối tượng nghiên cứu vì với mỗi người mỗi khác nhưng ai cũng hiểu cảm giác ấy là như thế nào. Nó không thoải mái, nó mang theo nỗi lo âu, nó sợ rằng mình sẽ không phải là mình, không còn được như mình vốn có.
Và để giải quyết “cảm giác” đó, người ta phải làm gì? Rất đơn giản: người ta đéo nói nữa.1
Biến mất thực ra là một sự thay thế. Điều này càng rõ với con người, vì con người có cảm giác, và họ luôn có sự lựa chọn.
Ai từng sống trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài đều biết rõ, khi ở cùng với những người đồng hương, người Việt nói chuyện với nhau rất rôm rả, nhưng khi tiếp xúc với người nước ngoài, người Việt (cũng như người châu Á nói chung) thường rất dè dặt và ít nói, vì nghĩ rằng tiếng mình không tốt. Càng dè dặt trong việc bộ lộ ý nghĩ, càng có khả năng cao (trong suy nghĩ ta) người đối diện cho là mình “kém”, và vì thế kéo theo, mình càng dè dặt và ít nói hơn.
Khi tiếng tốt lên sẽ giải quyết được phần nào vấn đề này, nhưng mối lo âu vẫn luôn còn đó — nỗi lo âu của những người học một thứ tiếng khác và bước sang môi trường khác. Song, khi ta hiểu được mối xung đột này, ta cũng nên đỡ hà khắc hơn với những người nói tiếng Việt chưa tốt, hoặc nói không đúng chuẩn. Ta cười một ông Tây nói tiếng Việt cũng giống như một người Tây cười một người Việt nói tiếng Tây. Để thế giới này tốt hơn, giải pháp là gì? Là chẳng có gì đáng cười trong chuyện đó cả.
Giới trẻ thích sáng tạo
…thì cứ để họ như thế
Như tôi đã nói trong bài nói ngọng, chủ nghĩa elite trong ngôn ngữ đại chúng, rằng phải tuân theo chuẩn này, chuẩn kia, không thì hỏng hết, còn nói lên nhiều điều về sự khác biệt giữa thế hệ. Người lớn tuổi ưa nói năng chuẩn mực; người trẻ thì luôn sáng tạo ra những từ mới, vì họ “thích thì nói” thôi, nó chẳng có lý do gì cả. Sự khác biệt về khuynh hướng này rất phổ biến, nên tôi nghĩ không cần quá sa đà vào việc chỉ ra ai đúng ai sai, đó là chuyện vô nghĩa.
Người trẻ sáng tạo ra từ “vãi chưởng”, người hồi cố ngôn ngữ sẽ lập luận bảo từ này không có trong từ điển X, Y, Z. Hiểu như thế thì việc dùng từ “vãi chưởng” dĩ nhiên là sai rồi. Nhưng một trật tự mới mà những người hồi cố không kiếm tìm là một trật tự mà ở đó có từ “vãi chưởng”. Sau hơn hai chục năm qua, từ ấy vẫn cứ ở lại trong ngôn ngữ thông thường.
Ở những nước nói tiếng Anh, những người trẻ và giới liberal nói chung đã bắt đầu dùng đại từ nhân xưng “they” để chỉ một người nào đó mà ta không nhất thiết phải định rõ họ là “he” hay “she”. Sau một thời gian, cách dùng này trở thành khá thoải mái vì rất lắm khi ta cũng không biết rõ giới tính của một người (hoặc nhỡ đâu họ là “he/him” nhưng lại không muốn được gọi như vậy) nên “they/them” là cái gọi thoải mái nhất.
Người ta lại tiến tới đặt ra câu hỏi, như vậy “they wants” hay “they want” mới đúng. John McWhorter, một nhà ngôn ngữ, chỉ ra rằng: thì cũng đơn giản thôi, “they want” nếu là số nhiều, và “they wants” nếu là số ít. Ta hãy áp dụng một cái nhìn mới là cả hai đều đúng, và như thế rõ ràng tiện lợi hơn và giải quyết nhiều tranh cãi.
McWhorter cũng chỉ ra rằng, nếu nhìn vào lịch sử vài trăm năm gần đây của ngôn ngữ tiếng Anh, thì đại từ nhân xưng và sự đồng hợp giống-số trải qua nhiều cuộc biến chuyển, và sự biến chuyển đó cho thấy rằng nói “they wants” không hẳn là sai, và việc cố chấp coi “they” phải biểu thị số nhiều và phải đi với “want” không phải là cách nhìn thân thiện với lịch sử.
Earlier English had “thou” for addressing one person, with “you” used only in the plural. (Actually, the subject form was “ye,” with “you” as the object form.) But by the 18th century, in standard English “thou” was relegated to the archaic, and “you” referred to both singular and plural. However, many speakers felt that saying “you were” to a single person — using the plural verb — was unnatural and therefore said “you was.” (John McWhorter, bài trên NYTimes)
Ai nghe kịch Shakespeare sẽ thấy tiếng Anh cổ dùng “thou” thay cho “you”. Ở thời điểm chuyển giao giữa “thou” và “you”, và thậm chí về sau này, vẫn có nhiều người nói “you was” bởi vì họ nói như vậy thuận mồm. Nếu nhìn vào lịch sử, sự biến đổi từ “thou” (chỉ một người") sang “you” (chỉ một hoặc có thể nhiều người), ta sẽ thấy những ai nói “you was” có lý do của họ, ít nhất là họ cảm thấy thoải mái. Và nếu biết thêm những ngôn ngữ khác (tiếng khác có “vous”, tiếng Đức có “Sie/sie” chẳng hạn), ta sẽ thấy việc khắt khe với “they want” là không cần thiết. Chữ “they” để chỉ số ít, và đi cùng với động từ số ít, rồi cũng sẽ ở lại trong tiếng Anh.
Đừng tắt đi động lực người học
Tôi đi dạy mỗi kỳ một môn. Tôi thuộc trường phái giáo viên cực kì dễ. Đi học đủ, làm bài đủ và tích cực thảo luận là tôi cho qua. Cùng cần tính tới bài kiểm tra của những môn tôi dạy thường là viết luận, chứ không phải tính toán và cần phải ra đáp án đúng mới được điểm. Tôi hay cho sinh viên cuối kỳ thuyết trình, vì chỉ cần có thuyết trình, sườn bài cẩn thận là có thể đỗ. Tôi nghĩ trên trần đời này, hiếm có ai thuyết trình mà bị đánh rớt; chuyện đánh rớt chỉ chứng tỏ giáo viên quá mean.
Format thuyết trình như một bài kiếm tra cuối khóa (cùng với các hình thức chấm điểm khác) bắt đầu nở rộ từ cách đây hai chục năm. Mục đích (tôi nghĩ) là để cho cả giáo viên lẫn học sinh đều dễ thở, và cho phép học sinh hay sinh viên có thể qua môn, hoặc dùng điểm thuyết trình kéo điểm trung bình môn lên, mà không quá chật vật. Và format thuyết trình đã ở lại trong thế giới chúng ta. Không ai đòi xóa bỏ nó, coi nó như một bước lùi của nền giáo dục.
Triết lý của tôi, cho việc làm một người giáo viên quá dễ dàng như tôi là, rất đơn giản. Việc quan trọng của người dạy không phải là sắp xếp học viên theo đúng thang bậc; thiếu người giáo viên, vẫn có những quy chuẩn khác đặt người ta vào một thang bậc tương đối nào đó. Việc quan trọng của người dạy (hay nói đúng hơn, người đi cùng với người học) là tạo động lực cho người ta còn đi học. Tạo động lực có thể qua nhiều cách: khuyến khích bất cứ người học nào cũng có thể cất lên tiếng nói (thuyết trình là một cách), không khăng khăng rằng một cách nghĩ như thế nào đó là sai, etc. và sau cùng, ít nhất, là tạo điều kiện cho người học qua môn, nếu họ đi học đủ và làm bài tập đủ.
Trái lại, làm tắt đi động lực có thể có nhiều cách. Tôi dẫn ở đây hai ví dụ tôi biết.
Hồi năm 2020, tôi có việc sang Thụy Điển, làm ở trường Uppsala. Một bạn đồng nghiệp trẻ dạy ở trường này nói với tôi: trong lớp tớ, bài làm việc nhóm, tớ bắt các bạn phải vào nhóm làm sao mix các quốc tịch, kiểu bốn đứa Tàu không được làm với nhau, mà phải đứa Tàu làm với đứa Đức, đứa Pháp, ví dụ.
Tôi không đồng tình, tôi nghĩ cách làm này, nếu mang tính cưỡng bức (người dạy ít khi nào để ý các điều kiện của họ phần lớn là mang tính cưỡng bức) sẽ khiến người học không thoải mái. Khi không thoải mái, họ sẽ càng ít đóng góp, hoặc, như đã nói ở trên, họ sẽ giảm đi mong muốn phải “mở miệng”.
Một bạn khác, dạy ở UK, kể rằng khi chấm bài luận sinh viên, bạn cực kì khắt khe với chuyện phải viết đúng văn phạm. Vì với bạn, viết đúng văn phạm là yêu cầu tối thiểu của một sinh viên đại học. Và bản thân bạn cũng thuộc giới học sinh “chuyên ngữ” ở Việt Nam, nên bạn hiểu và tự tin rằng yêu cầu này của bạn là thích đáng và hợp lý.
Tôi thấy việc khắt khe này khá là kì cục. Chấm điểm văn phạm là việc của một cơ chế khác. Điều quan trọng, nên là đánh giá xem học sinh trình bày vấn đề trong môn của mình tới đâu. Và chỉ cần một lời phê là em viết sai “grammar”, có thể dẫn đến việc làm người sinh viên ấy mất đi động lực. Mất động lực là một hệ qua to lớn, rất tác hại, trong khi cái lỗi sai grammar thì, theo tôi nghĩ, vô cùng dớ dẩn. Chưa kể, liệu em học sinh đó có quyền phản biện về lỗi sai grammar đó không (“em viết thế thấy thoải mái”); nếu có, người dạy chưa chắc lắng nghe vì ngay từ đầu, họ đã coi đó là sai rồi.
Làm người châu Á, tôi hiểu rõ khía cạnh này trong tâm lý của các bạn đi học: có những thứ mình muốn nói nhưng mình ngại không muốn nói. Đôi khi tôi chỉ dùng trick thế này, tôi bảo các bạn cứ vô tư triển khai ý mình đi, lớp chúng ta không cần câu nệ về văn phạm, hay người này nói hay ho, người kia nói lưu loát đâu (hoặc một cách động viên tương tự). Là chỉ vài phút chốc sau, tôi nhìn thấy ở những bạn vốn dĩ rụt rè (làm sao mà không phát hiện ra được) một sự mạnh dạn hiếm có, và chỉ vài buổi sau, sự mạnh dạn ấy trở thành sự thường tình.
Nói riêng, tôi nghĩ ở thời hậu Covid này, đi học và chịu một ngày sáng dậy chấp nhận cái ý niệm rằng hôm nay mình đi học, và chưa kể đến lớp học cho ra học để không hoài phí việc mình hôm nay đã đi học, đã là một sự quá lớn đối với người đi học. Đôi khi tôi vẫn nghĩ vẫn vơ và hình dung xem chuyện đó lớn lao đến nhường nào, và tôi nghĩ, việc chịu đi học đó phải lớn như là một hôm tôi dậy và nghĩ đến việc hôm nay mình phải bảo vệ luận án tiến sĩ (tôi còn nhớ rất rõ hôm đó, vì tối hôm trước đó tôi xem trận chung kết Argentina với Pháp, và chiều ngày hôm sau, khi bảo vệ xong, tôi mua một tờ báo có hình Messy trang nhất, tính giữ làm kỉ niệm mà vứt đâu rồi).
Nên tôi nghĩ, chúng ta không nên bỏ lơ hoặc xem thường những sự lớn lao mà người khác phải đối mặt. Một người Việt nói một câu tiếng Pháp ở Pháp. Một đứa trẻ Việt F2 nói một câu tiếng Việt ở Việt Nam. Một học sinh dè dặt phát biểu ý mình trong lớp. Một sinh viên bước ngoài đóng góp cho bài tập nhóm của một nhóm toàn local. Những điều ấy đâu có nhỏ. Vậy nên chăng, ta chứa chấp những nỗi hà khắc vụn vặt khi nghe ai đó nói “không chuẩn”?
Chẳng để làm gì cả, ngoài việc ta cắt đứt một khả thể mới của sự hiểu — sự hiểu ở chính ta. Bởi vì người được “phê phán” ấy đâu có buồn tiếp xúc với ta nữa.
Nhiều bạn 8x chắc còn nhớ có một bạn nữ ở Sài Gòn ra Hà Nội chơi rồi không ưng sao đó mới làm clip tên là “đm Hà Nội”, gần gần như thế, và lên BBC. Bạn nữ ấy học trường tôi thì phải, nếu nhớ không nhầm.