Ngày hôm qua, mạng xã hội xôn xao về tin đồn “người đứng đầu Tập đoàn lớn bị áp dụng biện pháp ngăn chặn”, và cổng thông tin chính phủ đã nhanh chóng bác bỏ tin đồn này. Công chúng xôn xao vì có vẻ người đứng đầu tập đoàn lớn là một trong những người giàu nhất Việt Nam. Ở đây, chúng ta tạm chấp nhận “giàu” trong tiếng Việt là một kết hợp giữa “rich” và “wealthy” (ở bài trước tôi đã phân biệt hai khái niệm này.) Trong ngôn ngữ nói phổ thông, người ta nói “giàu” gần như hoàn toàn là để chỉ “rich”, nhưng khi ta nói đến một trong những người giàu nhất của một xã hội, thì gắn “rich” với “wealthy” cũng không có gì sai.
Những biến động gần đây ở các công ty bất động sản lớn khiến chúng ta không khỏi liên tưởng đến những biến động đã xảy ra ở thị trường vốn ở Trung Quốc.
Hai nốt chính về những gì diễn ra ở Trung Quốc:
Tháng 9. 2021: khủng hoảng nợ ở tập đoàn bất động sản Evergrande. Công ty này không thể bán nhà đủ nhanh để trả món nợ 300 tỉ đô sắp đến hạn. Nói nôm na là thiếu thanh khoản.
Từ cuối năm 2020, các tập đoàn công nghệ lớn tại Trung Quốc không ngừng bị “xét nét”: Ant Group bị ngăn IPO (tháng 11.2020); Alibaba, nắm một phần ba Ant Group, bị phạt 2.8 tỉ đô vì luật chống độc quyền; Didi (kiểu như Grab) không được mở niêm yết ở sàn New York (tháng 6.2021); Tencent, hãng điều hành WeChat, bị ngăn lấy bản quyền phát nhạc trực tuyến; TAL Education bị thắt chặt trong hoạt động dạy trực tuyến. Hang Seng Tech Index, trong đó Alibaba chiếm tỉ trọng 7-10%, chứng kiến 1.500 tỉ đô bốc hơi trong năm 2021.
Tăng trưởng doanh thu 2021-2022 ở các tập đoàn công nghệ Trung Quốc. Nguồn: Bloomberg
Khi chính phủ Trung Quốc siết chặt sự mở rộng quy mô của các tập đoàn công nghệ, chủ tịch Tập gọi đó là đề phòng sự mở rộng vốn một cách vô trật tự. (Ông dùng cụm từ 资本无序扩张, tức “tư bản vô tự khuếch trương”; báo chí phương Tây dịch là “disorderly expansion of capital”.)
Rủi ro của mở rộng tư bản thiếu kiểm soát
Đặt tương quan sự phát triển của mảng công nghệ internet ở Trung Quốc và Mỹ — đều có những công ty phát triển rất nhanh và cổ phiếu tăng phi mã trong cùng thời kỳ, lập luận của chính phủ Trung Quốc về cost vs benefit là benefit không thể sánh bằng cost. Lợi ích của việc thả lỏng là Trung Quốc sẽ có các công ty công nghệ ngang tầm với Mỹ; Trung Quốc đã dành nhiều năm thử nghiệm một mô hình Silicon Valley của chính mình. Nhưng chi phí của việc để khu vực tư nhân, cụ thể là bất động sản và công nghệ, mở rộng hoạt động với sự tự chủ nhất định1, là sự đánh mất kiểm soát của nhà nước với nền kinh tế tư nhân.
Theo lập luận này, sự thả lỏng diễn ra trong 30 năm qua từ sau cuộc cải cách mở cửa của Đặng Tiểu Bình (từ 1978 đến khoảng 2010) cần phải bị giới hạn2. Nói đúng hơn, sau 40 năm cho phép thị trường đóng vai trò ngày càng lớn trong tăng trưởng và thịnh vương, Trung Quốc cần nghĩ đến mô hình bớt “nóng” hơn, phù hợp với lý luận Mác xít hơn. Giới hạn vai trò của thị trường, như Jingzhou Tao chỉ ra, có thể đồng nghĩa với việc quay trở lại mô hình sở hữu công-tư kết hợp như thời Mao những năm 1950, quốc hữu hóa công ty tư nhân (tùy vào cách tính GDP, nhưng điều này có thể làm GDP giảm) — đặc biệt là trong mảng thu thập dữ liệu, an ninh quốc gia (cyber security) và dịch vụ tài chính.
Biểu đồ dưới đây cho thấy sở hữu nhà nước giảm mạnh từ năm 2010 đến 2020, nhưng năm 2021 thì tăng lại.

Theo bài báo này của Bloomberg thì từ năm năm trở lại đây Trung Quốc cần nhiều hơn các nhà lý luận Mác xít. Các cử nhân và sinh viên cao học ngành chủ nghĩa Mác được săn đón, đặc biệt ở các công ty tư nhân đang cần “tút” lại báo cáo quan hệ công chúng cho gần hơn với đường lối của nhà nước. Các trung tâm nghiên cứu về nền kinh tế chính trị định hướng xã hội chủ nghĩa với đặc thù của Trung Quốc (gọi tắt là SPECC3) liên tục được mở.
Dưới con mắt các nhà kinh tế Mác xít kiểu mới, sự bành trướng thị trường vốn trong những năm qua, gắn liền với hệ thống tài chính hiện đại, giống như những gì Marx đã mô tả về "tư bản giả" (fiktives Kapital). Đặc điểm của tư bản giả là nó có thể mang lại thu nhập cho người sở hữu, có thể mua đi bán lại, nhưng lại không có giá trị gì. Chúng ta thử lấy trường hợp bitcoin. Nếu nói rằng, tính tất tật các chi phí đào, chuyển nhượng và bảo trì, một bitcoin có giá trị thực chất vào năm 2022 là 10.000 đô, thì việc bitcoin tăng giá từ 10.000 lên 60.000 đô chỉ phản ánh một giá trị ảo, và tư bản giả sinh ra từ việc đầu cơ và lòng tham của con người — ở đây là người sở hữu tư bản, chứ kẻ chân đất mắt toét có muốn tham cũng không được, vì không có cơ hội access vào thị trường đó.
Song, đặt tương quan giữa người sở hữu tư bản và kẻ chân đất mắt toét — như bài trước đã nói là nhóm người bị tước mất bargaining power trong việc làm chủ cuộc đời mình, thì ở các xã hội có định hướng xã hội chủ nghĩa có điểm gì chung và riêng, cụ thể là ở khao khát được trở nên giàu có?
Ham muốn trở nên giàu có
Tôi sẽ dùng số liệu, tức là kết quả từ khảo sát được trình bày trong bài báo năm 2022: “Attitudes towards the rich in China, Japan, South Korea, and Vietnam” của Rainer Zitelmann. Cần phải disclaimer trước, rằng đây là bài báo đăng trong tập san của Institute for Economic Affairs, một think-tank thiên hữu cổ súy thị trường tự do (nhà nước không can thiệp), một đầu mối của nhiều nhà kinh tế và luật học thiên về đảng Cộng hòa ở Mỹ. Kết luận của bài báo là công chúng ở Nhật, Hàn và Việt Nam có thiện cảm với người giàu hơn công chúng ở phương Tây, còn Trung Quốc với châu Âu nằm ở giữa.
Biểu đồ dưới đây cho thấy phần trăm người trả lời câu hỏi “Giàu có có quan trọng với cá nhân bạn không?” biểu thị “quan trọng” hoặc “rất quan trọng”.
Người Việt đứng đầu bảng với 76%, cao hơn hẳn vị trí thứ hai là Hàn Quốc. Tức là, trong bốn người Việt thì có ba người đau đáu với việc làm giàu hoặc trở nên giàu có. Nằm ở cuối bảng là Mỹ, Pháp, Đức và Anh. Một sự trùng hợp lạ kỳ là cả bốn nước phương Tây này nằm gọn trong phạm vi nghiên cứu của Thomas Piketty trong Tư bản thế kỷ 21. Piketty lấy số liệu về tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng dân số, tăng trưởng vốn và tỉ trọng thu nhập ở bốn nước này từ thế kỷ 18 đến 20; nguyên do: lấy số liệu dễ, đặc biệt là Pháp. (Xem số liệu cụ thể của Piketty ở đây.)
Tại sao cả bốn nước phương Tây này đều không mấy mặn mà với việc trở nên giàu có, có lẽ vì, trải qua nhiều thập niên tăng trưởng liên tục (giai đoạn 1950-1970), và kinh qua những bước tiến ngoạn mục về công nghệ (1980 đến nay), cơ hội cho việc “bứt phá” làm giàu đã dần bị thu hẹp lại, nếu không muốn nói là rất ít.
Người Việt ở nước ngoài từ cách đây nhiều chục năm hiểu rất rõ điều này. Bán dạo những món hàng quần áo hoặc trang trí Giáng sinh ở chợ trời Đông Đức, chẳng hạn, những năm 80-90 có thể lời rất khẳm, nhưng cơ hội đó ngày nay không còn nữa. Chưa kể, với sự hoàn thiện (hoặc già cỗi, tùy quan điểm) của thị trường việc làm và việc đánh thuế, cách kiếm tiền ổn định nhất là làm công ăn lương, thay vì tự kinh doanh và lấy công làm lời. Một ví dụ dễ thấy: mua nhà ở Việt Nam rất dễ, chỉ cần có tiền, mà không ai hỏi tiền ở đâu ra. Ở phương Tây, phải chứng minh nguồn tiền và việc mua đi bán lại bị đánh thuế cao.
Nhìn nhận về người giàu
Khi được hỏi về những tính cách có thể thấy ở người giàu, sự khác biệt ở các xã hội tương đối “đồng văn” lại khá lớn, cho thấy ở bảng sau:
Nếu so với người Trung Quốc, người Việt có thiện cảm hơn nhiều với người giàu. Đa phần người trả lời Trung Quốc coi đặc điểm dễ thấy nhất ở người giàu là trọng vật chất "(materialistic); với người Việt, đặc điểm này đứng thứ 6. Người Việt cũng không quá xem giới người giàu là tham lam (greedy đứng thứ 7). Ở mặt khác, người Việt đặc biệt coi giới giàu có là biết nhìn xa trông rộng, có tầm nhìn (visionary đứng đầu), và thông minh (intelligent), và can đảm, dám nghĩ dám làm (bold).
Một khác biệt nữa của xã hội Việt Nam, không chỉ so với Trung Quốc mà với cả phương Tây và hầu hết các nước còn lại, là thái độ của phụ nữ với giàu có.
Phụ nữ Việt Nam đặc biệt coi trọng việc cá nhân mình trở nên giàu có (“personally to be rich”); bốn trong năm người phụ nữ đồng tình điểm này, và tỉ lệ đó còn cao hơn đàn ông. Điều này trái ngược hẳn với các nước còn lại trong bảng, khi tỉ lệ đàn ông muốn giàu cao hơn phụ nữ. Chúng ta có thể suy diễn điểm này là: phụ nữ Việt Nam vốn dĩ có nhiều cơ hội — access cao vào tài chính, giáo dục STEM và vai trò tự chủ cao trong gia đình, nên họ suy nghĩ mở hơn về việc bản thân mình có thể làm già: vì họ nghĩ việc đó là có thể.
Một lý do cho ham muốn làm giàu nói chung của người Việt, tôi suy đoán, như đã nói ở trên và bài trước, là người Việt không phân biệt hẳn hòi giữa “rich” và “wealthy”, giữa “income” và “wealth”. Tất tật, hiện diện dưới dạng ngôn ngữ, là “giàu” hết. Trong ngôn ngữ và suy nghĩ đời thường, không ai quá quan tâm đến việc một người “wealthy” là như thế nào — là trường vốn, có vốn liếng lận lưng, có của ông bà già để dành, etc. hay sao? không ai nói như thế hết. Và rõ ràng, các câu hỏi và cả bài báo sẽ dẫn đến kết quả biased với người Việt nếu tập trung vào “rich”. Khi dịch người từ tiếng Việt sang, “giàu” chỉ chung cả “rich” và “wealthy”.
Người Việt khoan dung với tích lũy của cải
Tại sao tôi lại nghĩ agenda của Piketty về giải quyết bất bình đẳng lại phù hợp với tình hình Việt Nam? Khi được hỏi về thái độ với việc đánh thuế người giàu, người Việt khá khoan dung so với các nước Đông Á. Gấp đôi số người Việt, so với Nhật và Hàn, cho rằng có thể đánh thuế cao người giàu nhưng không nên đánh thuế cao quá vì họ làm lụng cũng vất vả, nhà nước không nên lấy thêm từ họ.
Thật ra, ở đây không chỉ phản ánh sự “khoan dung” với đánh thuế người giàu, mà còn là cách nhìn với sự hiệu quả của tiền thuế thu được; hẳn nhiên, khi tiền thuế không làm gia tăng phúc lợi xã hội, như ở các nước phát triển, thì người dân ở nước đang phát triển không mặn mà lắm với việc đóng thuế — dù là người giàu đóng hay chính họ đóng. (Cách đặt câu hỏi ở phần này cũng không ổn lắm, thể hiện quan điểm của cánh hữu).
Tương tự, khi được hỏi về thái độ khi người quản lý hoặc lãnh đạo công ty được trả lương cao gấp 100 lần nhân viên bình thường, bạn có đồng ý không, tỉ lệ người Việt đồng tình cũng cao hơn hẳn các nước châu Á khác; trong khi người Trung Quốc đặc biệt không đồng tình điểm này, theo đó, cấp quản lý không thể được trả lương quá cao vì họ cũng không làm nhiều giờ hơn hay vất vả hơn mấy so với nhân viên.
Câu hỏi này củ chuối ở một điểm là nó đưa ra hình ảnh một người quản lý lương cao gấp 100 lần nhân viên. Hình ảnh này, khi đặt ra trước một người bình thường, không khác quá nhiều so với hình ảnh một quản lý làm lương cao gấp đôi. Tôi nghĩ cần hỏi cụ thể rằng, giữa một ông làm lương 1 tỷ một tháng, và ông lương 10 triệu một tháng, câu hỏi mới có tính ép phê với số đông người Việt. Nhưng dù gì, số liệu này cũng cho thấy sự thân thiện của người Việt với việc thăng tiến, thăng quan tiến chức, tăng lương, làm quản lý. Vì dù gì, ta cũng ấm lòng khi tìm thấy hình ảnh mình trong đó.
Qua kết quả từ bài báo trên, ta có một hình dung sơ bộ về việc người Việt (tính cả, và đặc biệt ở phụ nữ) có cái nhìn tương đối thiện cảm với người giàu, việc ai đó và cả mình giàu có lên, sự thăng tiến và có lương cao trong công việc. Có thể hiểu đó là sự khoan dung với việc tích lũy tài sản, trong đó có bao gồm cả suy nghĩ kiểu “thôi, đánh thuế người giàu cao quá làm gì”. Và nếu áp điểm đó vào lập luận của Piketty trong Tư bản thế kỷ 21, đó có thể là điểm khởi đầu của sự dung túng cá nhân cho hiện tượng bất bình đẳng về tài sản (wealth) diễn ra ngoài xã hội. Người thực sự giàu có (wealthy) ở Việt Nam vẫn là một nhóm những ai đó thông minh, có tầm nhìn, quyết đoán; và giàu có vẫn là một điều phần đông người Việt hướng đến — ham muốn, khao khát và đau đáu ở trong lòng.
Ví dụ, để lấy vốn và có dòng tiền dương, các công ty bất động sản tham gia đầu tư hoặc tkiểm soát các ngân hàng thương mại hoặc các tổ chức tài chính; các nhà sản xuất ô tô thành lập các công ty tài chính tiêu dùng để hỗ trợ bán hàng và quảng bá dịch vụ; các công ty công nghệ mở rộng sang fintech để nâng cao khả năng ứng dụng công nghệ.
Ý tưởng của Đặng, nói nôm na là “cứ giàu lên trước đã”.
Viết tắt của “Socialist Political Economy With Chinese Characteristics”