Tôi vẫn chưa thể lý giải được, vì sao những tờ báo lại thu hút mình đến vậy. Có một thời tuổi trẻ rảnh rang, cứ mỗi cuối tuần tôi lại cùng chúng bạn đi ăn sáng rồi ngồi cà phê ở mấy quán dọc đường biển ở Vũng Tàu, mấy đứa chúng tôi chia nhau tờ Tuổi trẻ, Thanh niên rồi ngồi ngân nga chém gió. Thời gian, khi ấy, không phải là thứ cần phải được đặc biệt so đo đong đếm, nhất là với những tỷ phú của thời gian.
Cũng có một thời ở Sài Gòn, tôi hay đạp xe trên đường Trần Nhân Tôn gần phía sau nhà, lượm lặt những tờ Economist hay Time cũ, không phải để cập nhật tin tức, vì những tờ ấy cũ lắm rồi, mà để học tiếng Anh. Rồi đến lúc tôi đi làm ở một vài tòa soạn báo, tôi hay nhờ máy in ở đó in nhờ những trang báo giấy mà tôi có được bản pdf ở trên mạng. Hồi còn làm ở tòa Vincom B ở Đồng Khởi, chỗ tôi làm có máy in khổ A3, tôi thỉnh thoảng in vài trang Le Monde rồi sau giờ ăn trưa, xuống tiệm cà phê ngoài lề đường ngồi đọc báo. Tôi thi đậu tiếng Pháp B1 (còn vài điểm nữa là đậu B2) là nhờ những buổi trưa như vậy. Kế bên đó là Idecaf, chỗ tôi học buổi tối, có một thư viện mà hầu như tôi không vào bao giờ.
Chúng ta đọc báo là vì sao? Tôi nghĩ, thời của tôi, đọc báo không còn là lượm lặt tin tức. Tin tức có thể xuất hiện chỉ vài phút ngay sao một trận bóng. Người ta có thể đọc được đủ loại bình luận về bàn thắng của Supachok ngay tối hôm đó, ngay vào ngày hôm sau trên Youtube và mạng xã hội, có đầy đủ hình, clip, diễn biến trận đấu và lời bình luận từ đủ các trang mạng xã hội khác. Nhưng những tin tức đó sẽ được quên đi trong chóng vánh; người ta, trong cơn lo âu, lại tiếp tục click để lướt những dòng tin tức khác. Một lượng thời gian bị tiêu tốn, đưa ta trở về câu hỏi căn bản: Vậy đọc để làm gì?
Hãy chỉ nói về đọc báo. Lập luận của tôi rất đơn giản: báo chí là một trong những khớp nối giúp chúng ta kiên trì yên tâm rằng, cuộc sống của mình ở ngoài kia không phải là giả lập, rằng chúng ta đáng sống cuộc đời chúng ta được sống.
Báo chữ, với chiều sâu và sự tương tác của người đọc với những con chữ, bày cho chúng ta những mẩu tự sự. Mỗi chồng báo, mỗi một từ báo là một kho tự sự, nó có thể đưa vào tâm trí ta sâu hơn một ấn tượng có được từ màn hình điện thoại sau một cú vuốt tay. Chúng có thể khơi gợi cho chúng ta hồi tưởng - tức là ở một mốc thời gian (thời điểm ta đọc) gợi cho ta cảm giác về một dải liên tục (continuum) của những gì đã và đang diễn ra, mang cho ta cuộc trò chuyện tưởng tượng với những người khác, và chúng ta có đủ khoảng lặng để thực sự nghe họ nói gì.
Báo = kho tự sự
Cũng lại là một ngày không có gì nổi bật (ngoại trừ sáng dậy thì thấy một lớp tuyết mỏng dường như đang chuẩn bị tan, sau một cơn gần giống như là bão tuyết từ tối hôm trước), tôi xuống căn tin trường ăn sáng và cầm theo tờ báo tôi nhận được từ trước Noel mà chưa có thời gian đọc.
Đập vào mắt tôi là hai tấm hình của đứa trẻ, hình của nhiếp ảnh gia Ina Schoenenburg trong bộ “Blickwechsel” (thay đổi cái nhìn): một tấm cô bé buồn chán vắt mình lên thành ghế với một cuốn vở, cô ngồi cùng với mẹ mình trong phòng khách; một tấm khác sống động hơn, cô đang giăng đèn cùng với ông mình trong một nhà kho có lẽ ở sân sau.
Bài báo thuật lại những kỉ niệm riêng của người viết về quãng thời gian đẹp nhất thời thơ ấu, là những quãng được sống thảnh thơi, thoải mái cùng với ông bà mình.
Đây là đoạn lược dịch đoạn mở đầu của bài báo:
Một trong những khoảnh khắc đáng nhớ nhất trong năm với tôi là khi chiếc xe của ông bà đỗ trước nhà vào ngày cuối cùng trước kỳ nghỉ Giáng sinh. Bà tôi xách chiếc vali da vào phòng tắm, còn ông tôi, vừa mang hành lý từ xe vào nhà xong, đã vội thay đồ lao động để sửa chữa một thứ gì đó. Chỉ trong vài phút, cả ngôi nhà tràn ngập mùi thơm của áo sơ mi và áo blouse được ủi phẳng, thoảng mùi rượu xoa bóp Franzbranntwein cùng với len dệt. Ông bà tôi còn mang theo bánh Christstollen từ Emsdetten — cả gia đình đều tin rằng không đâu ở Hamburg, hay thậm chí cả nước Đức, có loại bánh Christstollen nào ngon bằng. Chẳng mấy chốc, chúng tôi quây quần bên bàn ăn trong phòng khách, thưởng thức từng miếng bánh, rồi lại thêm một miếng, và thêm một miếng nữa. Bà tôi cười nói: “Chúng ta vẫn còn một cái bánh nữa đấy.”
Tôi nghĩ, hiếm khi nào tôi cảm thấy yên bình như trong những khoảnh khắc ấy. Có điều gì đó thật đúng đắn, thật trọn vẹn khi được ở bên họ. Đến tận bây giờ, tôi vẫn nghĩ về họ gần như mỗi ngày. Vào buổi sáng, khi tôi lấy hộp sữa từ tủ lạnh, lắc nhẹ hai lần như bà tôi thường làm, để kiểm tra xem còn bao nhiêu. Hoặc khi tôi đứng dậy lần thứ ba trong bữa tối để lấy thêm thứ gì đó, trong tâm trí, tôi nghe thấy tiếng ông tôi nói bằng giọng địa phương xứ Münsterländer: “Ngồi xuống đi!” Hay khi tôi nhìn thấy những chiếc xe mang biển số ST, thuộc quận miền quê Steinfurt. Năm nay, lần đầu tiên, con trai tôi đã đủ lớn để háo hức mong chờ Giáng sinh cùng ông bà.
Ở bên ông bà, tác giả có cảm giác “geborgen”: yên tâm, yên bình, được secured. Báo giấy truyền thống cho phép người viết được dàn trải suy nghĩ của mình qua các dạng longform (tôi nghĩ, tuần san, nguyệt san và các báo Tết còn tồn tại được, với một ý nghĩa căn bản nằm ngoài việc bán quảng cáo, là vì thế).
Báo mạng dĩ nhiên vẫn có những dạng long form. Chẳng hạn, tôi còn nhớ mình khá ấn tượng với một bài báo trên Narratively, tác giả kể về người bố bị lậm vào vòng xoáy thông tin của QAnon như thế nào, đến nỗi ông bị hoang tưởng và phản xã hội nặng, không còn tin vào bất cứ ai trong vòng người thân của mình. (Rất tiếc, từ khi tờ Narratively chuyển sang substack, bài báo này bị đặt vào paywall.) Các bài báo hay ở Bắc Mĩ, các bạn có thể tìm đọc trong bộ The Best American Essays; thường cuối mỗi tập sẽ có một danh mục dài và đầy đủ.
Não con người không phải cỗ máy nhồi thông tin, thông tin được đưa vào ký ức ngắn hạn, được sàng lọc, nhào nặn, để qua đêm (giống như nhào bột làm bánh mì í, để cho bột “chín” và bột nở), được dùng, bị rơi rớt, rồi một ít còn lại được đưa vào ký ức dài hạn. Vào đến ký ức dài hạn là một địa hạt lạ lùng. Nó không có hình hài cụ thể - mặc dù, nó có dạng, có mùi, có dư vị, có gợi lên một cảm giác. Nó không phải thứ có thể diễn giải xoèn xoẹt và rành mạch thành bullet point như cách ta hỏi ChatGPT về thứ gì đó. Nó có thể nằm giữa đúng và sai, hay nói một cách lượng tử, nó đi đồng thời bằng tất cả những con đường có thể, để hiện lên trong tâm trí vào lúc ta gọi đến.
Mối liên quan giữa văn bản, giữa tự sự và ký ức của con người - tức là tất tật những gì đã diễn ra trước thời điểm dòng suy nghĩ của ta đang cắt nghĩa văn bản đó, khiến tôi muốn quay về câu hỏi: đọc để làm gì, sống để làm gì nếu như cuộc sống của chúng ta là một mẩu được giả lập, nếu chúng ta chỉ là những đối tượng trong một chương trình máy tính, và rộng, chúng ta đang sống ở một trong những thế giới song song, và ở một thế giới song song khác, có khi chúng ta là một gã nông dân đang ngồi phởn nhìn đàn bò nhởn nhơ gặm cỏ?
Một lập luận phản thuyết simulation
Nếu như không có ký ức (tức là kéo theo, không có báo chí, không có kho lưu trữ, không có các bản viết được khắc trên đá) chúng ta hoàn toàn có thể là con người được giả lập chứ. Đi tiếp logic này, ta có thể lập luận rằng: nếu như, ngay cả ký ức của chúng ta cũng được giả lập thì sao? Tức là, bụp một cái, giả định, chúng ta được “sinh ra”, program được bắt đầu từ đêm ngày hôm qua, chúng ta là nhân vật mới xuất hiện trong program từ sáng nay, khi ta bắt đầu ngủ dậy.
Để cẩn thận hơn nữa, các “nhà lập trình” cũng gắn luôn cho thế giới mới này một ký ức giả: các kho lưu trữ giả, các bằng chứng khảo cổ học được giả lập, tòa nhà ta đang đứng, ly cà phê ta đang uống, tờ báo ta đang cầm đều là những đối tượng được lập trình sẵn giống như trong trò chơi Sim. Nghĩ thật đáng buồn, nhưng hoàn toàn là có thể chứ. Nhưng như thế thì ký ức là ta đang nhắc đến không còn là ký ức có thể thất thoát nữa: nó là một câu lệnh, một statement, nhắc đối tượng mang tên “tôi” nhớ lại hồi thanh niên đi long nhong cầm tờ báo ra ngồi cà phê bãi biển.
Và để program được chạy chặt chẽ, các nhà lập trình cũng phải đồng thời gắn ký ức đó vào trong đầu mấy đứa bạn tôi. Song, chúng ta cũng biết rằng mỗi khi… nhắc lại chuyện cũ, mỗi một người trong cuộc thường có nhiều phiên bản khác nhau, mông lung và lờ mờ theo nhiều kiểu khác nhau, trừ khi tồn tại một “biên bản” tường thuật rõ ràng (mầu dầu, sự rõ ràng này cũng chỉ mang tính tương đối).
Lại đi tiếp logic, giả như các nhà lập trình cố tình làm chuyện đó, để làm cho nó thật, bằng cách dán một lớp lờ mờ lên ký ức của từng nhân vật? Nhưng, chính ở đây, ta thấy một kẽ hở của lập luận. Nếu tồn tại một sự lờ mờ, thì các đối tượng được lập trình, các ký ức được lập trình không còn nằm dưới dạng từng câu lệnh nữa, nó trở thành một dải, một thực thể sống đã trải qua một quá trình thành hình - quá trình ấy đã diễn ra từ ngày hôm qua, từ tháng trước, từ năm này qua năm nọ. Quá trình ấy có thể kéo dài tới vô cùng, và có thể cắt nhỏ ra tới vô cùng.
Từ đó, tôi nghĩ rằng một phép để chứng minh rằng con người không tồn tại như đối tượng được giả lập trong một chương trình của siêu máy tính từ một đấng nào đó, là dùng chính những nghịch lý về giới hạn, dải liên tục và sự vô cùng (hay vô cực), những khái niệm mà giới toán học sáng tạo ra và cho tới giờ họ vẫn tranh cãi không ngừng chúng là gì - đơn giản vì chúng không thực sự có thật, chúng được sáng tạo ra.
Chẳng hạn, về nghịch lý của sự vô cùng, ta có thể chứng mình rằng, mặc dù tập hợp số thực là vô hạn, và tập hơn số nguyên là vô hạn, nhưng số lượng phần tử trong tập số thực lớn hơn số phần tử trong tập số nguyên. Điều này dẫn tới nghịch lý, ủa, vậy vô hạn kiểu này cũng có nghĩa là có giới hạn chứ? Hoặc, có thể chứng minh rằng khi n tiến tới vô cực thì 2^n (2 mũ n) luôn luôn lớn hơn n, tức là vô cực… nửa mùa, vì vẫn có số lớn hơn vô cực.
Như vậy, có thể chứng minh rằng con người không phải giả lập bằng cách như sau:
Như đã nói, ký ức là mắc míu và buộc chúng ta phải lùi về vô hạn thời gian. Khi làm như thế, số lượng các ký ức tăng bội; và đồng thời, số lượng tương tác giữa các ký ức ấy, giữa những cá thể con người với nhau, lại tăng theo cấp số nhân.
Vì không tồn tại một giới hạn của sự vô cùng, khi luôn có một số lượng đối tượng cần phải thiết lập nằm ngoài sự vô cùng, nên việc mọi thứ có thể được sắp đặt sẵn là điều không thể.
1bis. Việc lùi về vô hạn thời gian sẽ có giới hạn khi chúng ta chạm tới big bang, tức là điểm khởi đầu của thời gian, của vạn vật. Giả sử có big bang, thì thời gian từ hiện tại đến big bgang là liên tục, là một dải continuum. Nên nếu có thể, thì program này chỉ có thể khởi đầu từ big bang, vì nếu thời gian được giả lập là bắt đầu, chẳng hạn, từ sáng hôm nay, thì đi ngược lại tính liên tục mà ta đã nói tới. Nhưng nếu program được bắt đầu từ big bang, thì việc chúng ta đang sống trong program đó cũng chính là ta đang sống trong thế giới thực này.
Lập luận của tôi rất đơn giản: báo chí là một trong những khớp nối giúp chúng ta kiên trì yên tâm rằng, cuộc sống của mình ở ngoài kia không phải là giả lập, rằng chúng ta đáng sống cuộc đời chúng ta được sống.
Như vậy, có lẽ là tôi đang tổng quát lên, nếu không có báo giấy, không có những “ký ức vụn”, không có những chuyện xưa cũ và các phiên bản riêng của nó - và các phiên bản sẽ sinh ra tới vô tận khi chúng ta bắt đầu ngồi lại và hàn huyên với nhau - thì sẽ không có gì minh chứng rằng việc chúng ta tồn tại trong đời sống này không phải nằm trong một chương trình giả lập. Nếu như không có báo giấy mà chỉ có smartphone và màn hình vi tính, và người ta chỉ giao tiếp, click và tương tác, và âu lo và bận rộn trước các dạng screen, thì khả năng rất cao chúng ta đang là một nhân vật giả lập của “đấng”, ta đang “sống gửi” vào nhân vật của đấng.
Song, cầm tờ báo trên tay bên cạnh ly cà phê mỗi sáng, tôi không ngừng phân vân (và tò mò) về chương trình giả lập của đấng nếu có. Một chương trình máy tính hoàn chỉnh và chạy ro ro sẽ không thể nào chứa đựng quá nhiều những nghịch lý cơ bản. Hiểu theo cách máy móc, nghịch lý có thể là những bug làm chương trình crash, và ta có thể đặt câu hỏi sâu hơn, nếu chương trình crash thì có thể crash theo những cách nào (apocalypse chăng? hay tắt bụp một cái kiểu như rút ổ cắm điện?). Việc sống, nghĩ và hồi tưởng đã là những nghịch lý cơ bản của đời người. Ấy là tự do hay không tự do? Chúng cơ bản tới nỗi, việc con người liệu có sống trong simulation, không còn là câu hỏi định hình chúng ta nữa.