Chuyện ầm ĩ ngày hôm qua của Meghan và Harry và cuộc khủng hoảng của hoàng gia Anh xảy đến không sớm thì muộn. Đó là cái kết vốn dĩ của “cảnh”. Khi cảnh kết, sẽ có người ngồi bần thần và nhớ lại, mình đã làm gì để phải trở thành như thế này. Điều mà Meghan và Harry đang làm (viết bio, lên kênh của Oprah, hay tựu trung là tấn kịch Mexit), chính là nghiệm lại “mùi”, mùi của một thời họ đã từng trải qua.
1.
Như tôi đã gợi ý trong bài trước về những chiếc ghế nhựa, ghế là vật trung gian và trong nhiều tình huống là vật trung tâm để tạo ra cảnh (spectacle). Vì nó là vật vô danh và bên lề—thoạt nhìn không ai nghĩ ghế có một chức năng cơ bản nào khác ngoài việc ngồi, chúng ta luôn xu hướng hình dung rằng cảnh quan hay hạ tầng xung quanh quy định tình thế của chiếc ghế: loại nào, được đặt ở đâu, bao nhiêu cái, xếp thế nào. Nhưng tôi sẽ dần chỉ ra rằng, chính cái ghế mới đề ra quy tắc về cách người ta thiết kế cảnh quan, và hành vi và ngôn ngữ của con người cũng sẽ được ngấm ngầm nhào nặn chung quanh các quy tắc xuất phát từ cái ghế.
Ta vẫn nghĩ ghế nhựa là thứ xuất hiện nhan nhản, được xếp thành chồng, được nhét vào xó, chẳng đáng quan tâm. Nhưng nói không ngoa, những chiếc ghế nhựa có thể đã quy định cấu trúc của buổi chào cờ, cách thiết kế một sân trường, cách xếp đặt gánh hàng rong, cách thiết kế cảnh quan công cộng. Một vật thấp nhỏ và rẻ tiền, nhưng đóng vài trò lớn trong việc tạo ra “mùi” của cả một thời. (bài trước)
Trước khi đi sâu vào hành vi và ngôn ngữ con người phụ thuộc vào ghế như thế nào, hãy nói về hoàng gia Anh. Đây là ví dụ không thể điển hình hơn về sự tạo cảnh của ghế. Hãy quan sát cựu công nương Meghan Markle.
Thoạt nhìn, dáng ngồi của ba nhân vật đều chỉnh và gọn, tỏ ra rõ phong thái hoàng gia. Dáng ngồi được tôn lên bởi trang phục họ mặc, và những chiếc ghế họ ngồi, tức là được ấn định bởi đội ngũ stylist, nhiếp ảnh, PR hoạt động đằng sau. Nhưng Meghan trong bức ảnh này đã gây ra tranh cãi về cách cô ngồi: cô vắt chéo hai chân lên nhau. Và cách ngồi này đi lệch với tư thế ngồi mà cả bộ máy hoàng gia Anh quy định cho các công nương. Thuật ngữ “duchess slant” dùng để chỉ cách ngồi chỉnh tề nhất cho một quý cô hay công nương, đó là hai đầu gối và hai mắt cá chân phải tạo thành hai cạnh song song của hình bình hành. Như vậy khi bắt chéo chân thì đầu gối và mắt cá sẽ kẻ theo đường zigzag.
Nhìn lại bức hình trên. Ban đầu chúng ta nghĩ rằng cảnh quan quy định chiếc ghế, rằng trong một sự kiện có nhân vật của hoàng gia Anh tham dự, người ta sẽ đem ra dùng những chiếc ghế như thế. Nhưng nếu quan sát kĩ cả ba nhân vật, và đặt bức hình trong tương quan với (những) scandal xoay xung quanh Meghan, ta sẽ thấy những chiếc ghế ấy không chỉ đóng vai trò đơn giản là cho ba nhân vật hoàng gia ngồi. Cái ghế tương tác với Meghan. Meghan ý thức được việc ngồi như thế trên chiếc ghế như thế, được dành cho một sự kiện như thế sẽ tạo hiệu ứng thế nào. (Vì chắc chắn cô biết về duchess slant.)
Có người sẽ bảo, thế trang phục thì sao? Một trang phục formal cũng nhắc người mặc về luật ứng xử bất thành văn họ cần phải tuân theo. Nhưng ở bức hình trên tôi không thấy ba nhân vật mặc thứ gì đặc biệt “hoàng gia”, đó là những bộ trang phục ta có thể bắt gặp trên bất kỳ số tạp chí Bazaar hay GQ nào. Nói cách khác, ghế mới là trung tâm tạo cảnh.
2.
Nhà văn Anh chuyên viết tiểu thuyết lịch sử Hilary Mantel, trong bài luận về tính “phô diễn” của cơ thể các nàng dâu hoàng gia (bài bản full ở đây), đã nhận xét rằng việc dân chúng và báo giới chú ý đến các công nương mặc gì là biểu hiện cho nỗi sợ về cơn ác mộng tập thể sẽ trở thành hiện thực: trong tiềm thức, chúng ta luôn lo sợ việc bị lột trần trước đám đông. Các trang phục này dần tước hết phần hay ho của con người họ. Hilary Mantel nhắc cụ thể đến Diana và Kate, vì thời điểm 2013 của bài viết Meghan chưa xuất hiện.
Các nhân vật hoàng gia, mà biểu tượng là nữ hoàng Anh, bị truyền thông và cỗ máy hoàng gia thu rút thành những cái khung trống rỗng khoác lên người bộ trang phục và những lời nói, cử chỉ để dành cho họ mà không ai khác. Tập hợp những thứ họ mang tạo ra một cảnh quan cũng chỉ để dành cho họ mà không ai khác. Túm lại họ bị tước mất phần hồn và không còn là những cơ thể “phàm”. Là cơ thể hoàng gia, họ trở thành những cái bóng. Việc Meghan và Harry từ bỏ các tước vị và quyền lợi hoàng gia về cơ bản thể hiện mong muốn của họ được thoát khỏi những cái bóng như vậy. (Các chi tiết họ kể với Oprah Winfrey cũng là nêm nếm cho thêm mặn thêm nhạt, vì họ đã có thời gian tách ra nghĩ ngợi chán chê rồi mới kể.)
Trở lại bài của Hilary Mantel, bà kể trong một lần đến Buckingham Palace nhận tước hiệu, bà thấy nữ hoàng xuất hiện và không hiểu vì sao bà nhìn trân trân vào nữ hoàng như một con thú ăn thịt háu đói nhìn con mồi. Sau đấy bà hiểu mình nhìn vì tò mò. Một lần khác, Hilary Mantel kể, bà gặp hoàng tử Charles và ông bận một bộ vét không thể chỉnh tề hơn (“what a beautiful suit! What sublime tailoring!”). Trong buổi lễ được thiết kế theo đúng niêm luật của bất cứ sự kiện nào hoàng gia có mặt, Charles trao phần thưởng cho một nhà văn trẻ và anh này bận áo giản dị lên nhận giải, không vét, không áo choàng. Dĩ nhiên, anh ta ý thức việc mình tạo sự tương phản.
Cuối lễ trao giải, bà nhà văn nhìn ra một phòng khác bên hông lễ đường, bà thấy một chồng ghế nằm chỏng chơ và không phải vô hình (“It was a depressing, institutional, impersonal sight. I thought, Charles must see this all the time.”) Mọi vật được gom lại chỉ để tạo ra một cảnh quan đặc biệt, một cảnh quan tước đi phần hồn của các vật trong đó. Và ở đây, hoàng tử Charles được gói ghém trong bộ áo vét không thể chê vào đâu được cũng bị thu rút thành một vật thể, đóng vai trò tạo tương tác cho “cảnh”. Tôi thậm chí còn nghĩ, ghế đóng vài trò trung tâm cho “cảnh” hơn hoàng tử Charles. Vì “vắng mợ chợ vẫn đông”: cảnh được ấn định là có hoàng gia tham dự, nhưng không nhất thiết nhân vật ấy phải xuất hiện bằng mọi giá. Charles có thể cáo mệt không xuất hiện. Sự kiện có thể hủy (hoặc không) nhưng tính chất sự kiện vẫn được giữ.
Các chồng ghế nằm chỏng chơ ở căn phòng khác là minh chứng cho việc: chúng được dành để bày ra. Chúng được bày ra để tạo cảnh. Thiếu những cái ghế đó, sự kiện không còn giữ được tính chất hoàng gia. Trong khi đổi lại, nếu Charles buộc không thể có mặt (giả sử ông gặp ai đó dương tính với Covid và phải cách ly dài ngày), một nhân vật hoàng gia khác với bộ trang phục với tính chất tương tự có thể thay thế đi trao giải mà vẫn tạo ra một hiệu ứng tương tự. Charles hay không Charles, ta vẫn hiểu đó là một sự kiện có hoàng gian tham dự.
3.
Có hai khía cạnh tạo cảnh tôi muốn phân tích. Một là cảnh theo nghĩa cảnh quan vật lý, tức là kiến trúc, bố cục, túm lại là cách bố trí cảnh. Hai là cảnh theo nghĩa cần phải diễn, tức để có cảnh thì phải có nhân vật và thông điệp, và phải có ý nghĩ, một tập hợp các ý nghĩ quy định cảnh được trình bày thế nào, túm lại liên quan nhiều đến thể loại (genre) của cảnh.
Hãy nói đến cảnh quan vật lý trước vì tôi đã bàn một phần trong bài về ghế cũng như câu chuyện về hoàng tử Charles ở trên.
Trước lễ chào cờ, ghế được nhanh chóng bày ra sân trường theo vị trí cố định (dễ mà, vì lần nào cũng thế). Sau đó, cảnh bắt đầu. Sau khi lễ chào cờ kết thúc, ghế được xếp gọn lại thành chồng, các chồng ghế được xếp vào kho, hoặc được đặt trong các hốc dưới chân cầu thang. Khi đó, cảnh kết thúc.
Để hiểu cách bố trí của cảnh thực ra rất đơn giản. Thử nhớ lại phần lớn sân trường thời cấp 1 và cấp 2 của chúng ta được xây dựng thế nào. Phổ biến nhất là theo hình chữ U. Thiết kế chữ U không phải sáng kiến của Việt Nam, từ thời Pháp đã có rồi. Các sân trường sau này, tức được xây dựng tầm 20 năm trở lại đây, phải tính thêm các tiện ích khác để còn ganh đua trường chuẩn quốc gia nên mô hình chữ U không còn thỏa mãn, ít nhất phải chữ H, hoặc tốt hơn là theo dạng “phức hợp”: không nhất thiết phải theo chữ gì nhưng phải kết hợp được nhà thi đấu đa năng, hồ bơi, sân các môn thể thao ngoài trời (thường là bóng rổ), etc. Như vậy nếu nói về mùi của trường học ngày xưa (đọc bài về “mùi”), cái sân trường hình chữ U là không thể thiếu.
Cũng như trường học không thể thiếu cột cờ. Cột cờ được đặt ở chính giữa. (Còn ở đâu được nữa nếu không phải là chính giữa bên trong chữ U?) Chung quanh vành đai chữ U sẽ là những bồn hoa. Đặt cách đều giữa sân là những tán cây (me, phượng). Trong các buổi lễ cần có hát quốc ca, và toàn thể học sinh lẫn thầy cô giáo (thực ra nhân vật “thầy cô giáo” không quan trọng lắm, tôi sẽ bàn sau) sẽ đứng lên hướng về lá quốc kỳ. Sân hình chữ U về cơ bản thỏa mãn được những mục đích này.
Có đứng thì phải có ngồi, vì không thể đứng mãi mà không mỏi trong suốt 45 phút lễ chào cờ đầu tuần. Thậm chí một lễ văn nghệ có thể kéo dài bốn, năm tiếng đồng hồ. Rồi hát quốc ca xong, không lẽ các thầy cô được ngồi mà học sinh lại phải đứng? Vì thế, ghế nhựa lùn vuông là thứ tối ưu thỏa mãn được vai trò ngồi nghỉ (và lắng nghe) của toàn thể học sinh. Sự quy tụ ý nghĩ là đặc điểm không thể thiếu của tạo cảnh.
Những ai từng đi học cả ba cấp phổ thông đều biết rõ là cần sự có mặt của toàn thể học sinh. Không em nào được phép vắng. Sân trường nào trong nội ô (Sài Gòn chẳng hạn) có thể linh hoạt bằng cách chia ra lễ buổi sáng, lễ buổi chiều, nhưng tôi nghĩ hầu hết các trường đều tìm cách đáp ứng đòi hỏi về việc toàn thể học sinh phải có mặt. Đó cũng là vì “mùi” của ngày đó quy định như thế. Với tính kinh tế, tiện, gọn và nhẹ, ghế nhựa lùn vuông là lựa chọn không thể thay thế.
Tôi đưa ra một loạt các tiêu chuẩn cần có trong việc thiết kế sân trường để ta có thể chất vấn theo dòng ngược lại, tại sao chiếc ghế nhựa lùn vuông lại có thể quyết định gần như mọi thứ của cảnh (như ở hình trên):
Vì ghế nhựa lùn vuông là lựa chọn hoàn hảo để toàn bộ học sinh có thể dự lễ chào cờ, diện tích sân trường sẽ được tính toán làm sao để gói ghém đủ ngần ấy học sinh, mỗi học sinh chiếm một diện tích như thế nếu ngồi trên chiếc ghế như thế.
Số lớp học mỗi cấp học cũng được tính toán dựa vào tính “khả chứa” của sân trường. Tính “khả chứa” của sân trường cũng liên quan chặt chẽ đến tổng số học sinh trường có thể đón nhận. Vì nếu trường nhận đông học sinh hơn mức “khả chứa” của sân trường, đó là một tính toán chưa tối ưu.
Tổng số lớp cũng liên quan chặt chẽ đến hình chữ U của các lớp học, để làm sao tính hai buổi sáng chiều thì dãy lớp học đón nhận đủ số lớp ấy (vì thiếu phòng thì học ở đâu?)
Số học sinh trường có thể đón nhận quy định số giáo viên trường có ý định thuê.
Qua đó, ta thấy sĩ số mỗi lớp học thời ngày xưa có thể rất đông (gần 60 học sinh), nhưng bài toán mỗi lớp sĩ số bao nhiêu thì vừa vặn thực ra lại có lời giải mang tính địa phương và cục bộ. Sĩ số phụ thuộc vào ít nhất hai biến: vành chữ U của dãy lớp học (để đón nhận tổng số lớp) và tính khả chứa của sân trường (để đón nhận tổng số học sinh). Tất nhiên xây dựng xong thì hai biến này trở thành hằng số. Sau đó, lấy tổng số học sinh chia tổng số lớp ta có sĩ số trung bình từng lớp. Rất bất ngờ, cách thiết kế cả hai biến trên đều liên quan đến chiếc ghế nhựa vuông lùn.
Giả sử chiếc ghế to hơn một tí thì mọi thứ đã khác.
Rõ ràng thời bây giờ, cơ thể học sinh Việt Nam đã cao và to hơn một chút so với cách đây 20 năm, ghế nhựa lùn vuông đã không còn tối ưu như ngày xưa. Học sinh nặng thì ghế sẽ gãy nhiều hơn, điều này chắc chắn, vì ghế này dễ gãy lắm. Cấu trúc sân trường chữ U và sĩ số từng lớp và một số tiểu-kết-cấu khác cũng tương tự không còn tối ưu như ngày xưa. Tôi nói tiểu-kết-cấu vì nhiều kết cấu khác cũng bị ảnh hưởng nếu học sinh to và nặng hơn, nhưng không quá quan trọng. Ví dụ nhà để xe sẽ phải rộng hơn, vì xe đạp của học sinh sẽ to hơn xíu. Căn tin sẽ phải có dung tích lớn hơn, vì học sinh ăn nhiều hơn xíu. Các thay đổi này đều có, nhưng không quá lớn.
4.
Ghế nhựa quan trọng như thế trong việc ấn định cảnh quan, kiến trúc. Đến đây, bất kỳ kiến trúc sư nào cũng sẽ đồng tình rằng mỗi cảnh quan, kiến trúc đều có ảnh hưởng nhất định lên hành vi và ngôn ngữ con người sống ở trong đó. Kiến trúc không mang tính sinh học. Nó được dựng lên bởi con người, vì thế đặc biệt mang tính xã hội và văn hóa. Ở mục 3, tôi bàn về vai trò của ghế nhựa lùn vuông trong việc tạo ra cảnh quan của sân trường, cụ thể là trong lễ chào cờ. Ta có thể mở rộng ra trong các dịp khác mà nếu toàn thể học sinh có thể tham dự được là tốt nhất, chẳng hạn dịp nhà trường đón nhận huân chương lao động, hay lễ khai giảng và bế giảng, hay dịp văn nghệ mừng ngày 20 tháng 11. Túm lại là các dịp lễ.
Đến đây các bạn có nhận ra mắt xích bị sót mà tôi chưa nhắc đến không? Đó là các thầy cô. Toàn thể học sinh phải có mặt, nhưng toàn thể thầy cô thì linh động hơn. Thầy cô có thể nghỉ bệnh (đó là quyền ghi trong hợp đồng), có thể đi trễ, túm lại có thể vắng buổi chào cờ một vài lần trong năm mà không gặp sự cố gì to tát. Như vậy, nhân vật “các thầy cô” không quan trọng lắm vì sự có mặt của nhóm cá nhân này có thể thay đổi, và dù thế nào cũng không ảnh hưởng đến tính chất của buổi lễ. Điều gì khiến các thầy cô tách biệt ra khỏi “cảnh” và trở thành nhân vật phụ? Chính là vì họ ngồi những cái ghế khác.
Hãy thành thực với nhau: thầy cô không thể ngồi những chiếc ghế nhựa lùn. Ít nhất đó là những gì tôi chứng kiến 12 năm đi học. Họ sẽ ngồi những ghế cao hơn, có lưng dựa, khó gãy hơn và cũng nặng hơn. Vì to và nặng hơn nên số ghế này thường chỉ được phân bố một hàng. Một nhóm đại diện giáo viên sẽ ngồi vào đó, nhưng không phải toàn thể. Số đại diện này không đóng vai trò như hoàng tử Charles ở ví dụ trên, vì “cảnh” của các buổi lễ không xoay quanh họ, mà xoay quanh toàn thể học sinh.
Sự diễn ra của cảnh có sự đóng góp của tất cả học sinh: các học sinh giờ tay chào cờ, hát, ngồi và lắng nghe, nói chuyện và lơ đãng, móc mũi và nghịch đất. Các thầy cô chỉ cần ngồi yên như tượng: không nhất thiết phải hát (mấp máy môi cũng được), không quay ngang quay ngửa hay tỏ ra lơ đãng vì ai cũng có thể nhìn vào. Đôi khi các thầy cô tưởng rằng họ là nhân vật trung tâm của cảnh. Nhưng không phải. Chỉ là các thầy cô không ngồi ghế nhựa lùn.
Túm lại, những chiếc ghế nhựa lùn chi phối gần như mọi yếu tố cảnh quan và ý đồ bố trí buổi lễ trong trường học của một thời. Qua đó ta thấy được tính đồng phục của “mùi”. Tính đồng phục ấy rõ nhất là khi những chiếc ghế nhựa được xếp ra sẵn trước mỗi buổi lễ. Hàng nghìn chiếc ghế giống y như nhau. Người ta đã tính toán cho ngần ấy chiếc ghế, ứng với toàn thể học sinh, xếp trọn vẹn một sân trường. Và cũng rõ nhất là khi ngần ấy chiếc ghế sau buổi lễ được xếp thành chồng chỏng chơ dưới gầm cầu thang.
Đầu buổi lễ và cuối buổi lễ tạo thành đoạn đầu và đoạn cuối của cảnh. Ở cả hai thời điểm, ghế đều được xếp thành chồng ở đúng vị trí của chúng: vị trí bên lề và bị bỏ rơi, như những chồng ghế Hilary Mantel đã thấy. Đã xong phận sự của chúng rồi. Hỏi chúng có buồn không?
(Ở bài sau, tôi sẽ đi đến tính chất thứ hai của mùi: tính mắc míu.)