Từ lâu tôi đã tự hỏi về hiện tượng bully trong cách người Việt dùng mạng xã hội. “Bully” nghĩa là thái độ ngạo mạn, cả vú lấp miệng em, dỗ phủ đầu người khác, và đi cùng với nó là sự hung hăng — ngôn ngữ thóa mạ, chửi bới, văng tục với một người khác có ý kiến trái với mình, hoặc đơn giản chỉ là thích tham gia vào trò chửi bới nặc danh hội đồng. Gọi là “hiện tượng” vì những thành phần này rất đông, và căn nguyên của một cuộc bully nhiều khi rất vặt vãnh, chẳng hạn một ông trọng tài nào đó bắt không hợp ý trong một trận đấu tuyển Việt Nam không đạt được kết quả mong muốn. Vậy lý do nào dẫn đến hiện tượng trên: thái độ bully, nói một cách tổng quát?1
Có nhiều lý do, một trong số ấy tôi viết ở footnote, nhưng ở bài này tôi đặt vấn đề dưới dạng ý tưởng: một hiện tượng ngoại lệ có lẽ phải bắt nguồn từ một hoàn cảnh ngoại lệ, một sự đặc thù. Sự đặc thù ấy, tôi muốn triển khai ở khía cạnh ngôn ngữ. (Tôi tránh dùng từ “văn hóa” vì trong phạm vi blog này tôi vẫn chưa đưa ra định nghĩa văn hóa là gì, nó bao gộp và không bao gộp những gì.)
Mặc dù bản thân ngôn ngữ chứa đựng đầy những tiểu tiết vặt vãnh, nhưng ngôn ngữ là thứ tiếng chúng ta nói hàng ngày, ảnh hưởng đến quá trình cái Tôi “tự giác” — theo nghĩa, cái Tôi của chúng ta là chủ thể nhìn về cái Tôi chúng ta là khách thể và hình thành cái Tôi là bản thể. Vài ví dụ khi tôi nói rằng ngôn ngữ ảnh hưởng hay thậm chí quy định hành vi:
“Nó” là một từ rất xấu trong tiếng Việt. “Nó” có thể mang theo nghĩa xem thường, hoặc miệt thị. Xem lại bài, “Từ nào xấu nhất trong tiếng Việt?”
“Con” cũng là một từ thường dẫn đến nghĩa miệt thị. Khi nói, “con Tấm” hay “con Cám”, chúng nó thế này thế nọ, ta hình dung hai đứa trẻ ranh (là nữ!) hục hặc vài ba chuyện vặt vãnh. Nhưng từ chuyện vặt vãnh, có thể có án mạng xảy ra.
Tục ngữ, thành ngữ dân gian có nhiều câu mang tính phân biệt nặng nề, chẳng hạn: “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà.” Gớm chưa? Câu này còn gián tiếp ám chỉ là con, cháu thành danh là nhờ ông, nhờ bố. Và ta biết câu này gần như là cửa miệng trong đời sống gia đình hàng ngày.
Trong phạm vi bài này, tôi đi sâu vào một ví dụ về tục ngữ-thành ngữ truyền khẩu có thể bồi đắp tính bully ở phía người phát ngôn, và nhìn rộng ra, không chỉ người phát ngôn mà bất kỳ ai đã từng mang và ghim cái thế giới quan ấy vào đầu. Tôi chọn một câu có xuất xứ từ rất lâu rồi, ấy là…
Ếch ngồi đáy giếng
Đây là một câu mà bất cứ học sinh tiểu học nào cũng biết. Các thầy cô sẽ dạy rằng đây là thành ngữ. “Thành” nghĩa là dùng lâu rồi, quen miệng thì nó thành ra như vậy; và thành ngữ thường có nghĩa sâu xa và ẩn giấu nhiều hơn là các thành tố từ-ngữ tạo nên nó. Riêng câu này nó không chỉ là thành ngữ mà còn ẩn chứa một câu chuyện ngụ ngôn: nó có các nhân vật, và con ếch là một trong các nhân vật đó.
Đây là một câu gần như thuần Việt, không có một từ Hán Việt hiển nhiên nào; chỉ có chữ “giếng” có thể tranh cãi. Nhưng ít ai biết rằng xuất xứ của nó là thiên “Thu thủy” (chương 17) của Nam Hoa Kinh, sách Trang Tử, đại ý là “nước lũ mùa thu”. Bản tiếng Việt bạn có thể tự gúc, bản tiếng Anh chương này ở đây. Đây là đoạn nói rằng chúng ta không thể bàn về đại dương mênh mông với con ếch nằm dưới giếng:
Jo of the North Sea [thần Bắc Hải] said, "You can't discuss the ocean with a well frog - he's limited by the space he lives in. You can't discuss ice with a summer insect - he's bound to a single season. You can't discuss the Way with a cramped scholar - he's shackled by his doctrines. Now you have come out beyond your banks and borders and have seen the great sea - so you realize your own pettiness. From now on it will be possible to talk to you about the Great Principle [lễ giáo].
Đoạn sau của chương này giải thích rõ hơn về nhân sinh quan của con ếch. Tôi dùng hai bản dịch, tiếng Anh trước tiếng Việt sau, để chúng ta thấy tiếng Việt gần gũi với mình đến mức nào.
Công tử Mâu ngồi dựa vào cái kỉ, thở dài, ngước mắt lên trời mà cười:
- Ông có được nghe kể chuyện này không? Một con ếch nhỏ ngồi trong một cái giếng sụp nói với một con rùa lớn Biển đông: “Tôi sung sướng quá, tôi có thể ra khỏi giếng, nhảy lên miệng giếng, rồi lại vô giếng, ngồi nghỉ trong những kẽ gạch của thành giếng. Bơi trong nước thì nước đở nách và cằm tôi, nhảy xuống bùn thì bùn lấp chân tôi tới mắc cá. Ngó lại phía sau, thấy con lăng quăng, con cua, con nòng nọc, không con nào sướng bằng tôi. Vả lại một mình chiếm một chỗ nước tụ, tự do bơi lội trong một cái giếng sụp, còn vui gì hơn nữa? Sao anh không vô giếng tôi một lát coi cho biết?
Con rùa Biển đông vừa mới muốn đút cái chân bên trái vô giếng thì thấy không còn chỗ vì cái đùi bên phải đã bít cái giếng rồi. Nó từ từ rút chân ra, lùi lại, bảo con ếch:
- Biển đông mênh mông, ngàn dậm đã thấm gì, sâu thăm thẳm, ngàn nhẫn[468] đã thấm gì. Thời vua Vũ, cứ mười năm thì chín năm lụt, vậy mà mực nước biển không lên. Thời vua Thang, tám năm thì bảy năm hạn hán, vậy mà bờ biển không lùi ra xa. Không vì thời gian ngắn hay dài mà thay đổi, không vì mưa nhiều hay ít mà tăng giảm, đó là cái vui lớn của Biển đông.
Con ếch trong cái giếng sụp nghe vậy ngạc nhiên, thu hình lại, hoảng hốt, bối rối.
Để dễ hiểu và trực quan hơn, đây là một phiên bản truyện tranh trên reddit.
Câu chuyện ngụ ngôn “Ếch ngồi đáy giếng”, chung quy lại, ám chỉ những người (ếch) có suy nghĩ hạn hẹp hoặc kiến thức nông cạn, nhưng lại thích chứng tỏ, thích ra vẻ ta đây và phô bày cả kiến thức lẫn suy nghĩ ngắn cũn cỡn của mình với người khác.
Có một điểm gây tranh cãi về văn bản học, đó là Trang Tử không đặt nhan đề cho truyện này. Người đời sau (hoặc các học giả) đặt tên truyện là 井底之蛙 (tỉnh để chi oa) và người Việt dịch thành “ếch ngồi đáy giếng”. Có người bảo rằng chữ 井, chữ Hán hiện đại viết là 阱, còn có nghĩa là hố làm bẫy; chữ “tỉnh” (hoặc “tịnh”) không những chỉ cái giếng (well) mà hiểu theo nghĩa ẩn dụ còn là cái hố sâu, cái bẫy (trap).
Trong Bình ngô đại cáo cũng có chữ này: “Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh, Điển vật chức thuý cầm chi võng la”. Dịch nghĩa thành "Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt." Ở đây “tịnh” có nghĩa là cái bẫy. Những diễn giải của người đời sau đều dùng chữ này trong chuyện ngụ ngôn trên với nghĩa cái “giếng”, cả comic ở trên cũng vậy, nhưng chúng ta không nên quên nghĩa ẩn dụ của nó: một cá thể bị nằm trong bẫy.
Không ai tin hạnh phúc của ếch
Chúng ta quay lại những gì ếch nói:
“Tôi sung sướng quá, tôi có thể ra khỏi giếng, nhảy lên miệng giếng, rồi lại vô giếng, ngồi nghỉ trong những kẽ gạch của thành giếng. Bơi trong nước thì nước đở nách và cằm tôi, nhảy xuống bùn thì bùn lấp chân tôi tới mắc cá. Ngó lại phía sau, thấy con lăng quăng, con cua, con nòng nọc, không con nào sướng bằng tôi. Vả lại một mình chiếm một chỗ nước tụ, tự do bơi lội trong một cái giếng sụp, còn vui gì hơn nữa? Sao anh không vô giếng tôi một lát coi cho biết?"
Nếu ta tin những gì ếch nói là đúng, đây không hề là suy nghĩ tự cao tự đại, khệnh khạng, hay vỗ đầu người khác. Con ếch chỉ đang bày tỏ niềm hạnh phúc của mình (Tôi sung sướng quá!), trong một hoàn cảnh mà ếch tìm thấy sự đủ đầy: vừa có thể tập thể dục vừa có những hoạt động vui chơi giải trí, vừa có cơ hội gặp chúng bạn vừa cỡ với mình (con lăng quăng, con cua, con nòng nọc). Đây là niềm vui chính đáng, cũng giống như trẻ con luôn tìm chơi những bạn ngang ngang tuổi mình.
Xung đột về thế giới quan chỉ xảy ra khi ếch gặp cụ rùa từ biển Đông về (“the great turtle of the Eastern Sea”) và vô ý mời cụ xuống giếng chơi. Từ cái nhìn của rùa, làm sao mà xuống giếng được? Xuống để mà chết vì mắc kẹt à? Chưa kể, cuộc sống xoay quanh cái giếng không phải dành cho rùa. Rùa to thế cơ mà, rùa sinh ra để vẫy vùng dưới biển.
Bài học đạo đức rút ra từ chuyện2 ngụ ngôn này có một tiền giả định là chúng ta, những người đọc, không thể tin lời ếch khi chú ta nói về niềm sung sướng được ở trong cái giếng của mình.
He’s just a frog. He’s not to be trusted!
Theo tiền giả định đó, vì ếch chỉ sống cả cuộc đời xung quanh cái giếng, “nó” làm sao hiểu được ý nghĩa của sự tự do đích thực, của niềm đam mê hiểu biết không giới hạn, của sự to lớn và kì vĩ của thế giới ngoài kia — một thế giới bên ngoài cái giếng. Nhưng tiền giả định này có vấn đề vì chúng ta không phải là ếch, chúng ta không hiểu được những niềm vui nhỏ bé mà ếch đã chỉ ra cho chúng ta: niềm vui được chơi với con loăng quăng, được nhảy lên những hòn đá, và cả niềm vui được đón khách quý.
Ếch tiếp cụ rùa niềm nở, lại còn mời cụ xuống chơi. Ấy vậy mà, tất cả mọi người, kể cả cụ (kẻ thông tuệ và được chu du khắp nơi bậc nhất) đều đánh giá ếch là đồ ngu học, đồ không biết sông lớn biển dài, đồ não ngắn. Mọi đánh giá đạo đức đều quy giản về việc: đừng như ếch (Don’t be like ếch!)
Như vậy, bài học đạo đức của câu chuyện còn liên đới đến một định kiến sâu thẳm trong mỗi chúng ta: chúng ta không tin họ, không nghe lời họ nói, chỉ vì họ khác chúng ta. Bạn có thấy điều này quen thuộc trên cõi mạng không?
… và không ai tin vào khoảng trời của ếch
Xét về mặt không gian, có hai chiều phối cảnh chính trong câu chuyện này: một là rùa và người khác nhìn xuống ếch ở đáy giếng, và hai là ếch ở đáy giếng nhìn bầu trời. Tôi đã bàn tới chiều từ trên xuống, giờ hãy nói tới chiều ếch từ dưới đáy giếng nhìn lên.
Bất cứ kẻ cô đơn và thất tình nào cũng đã nghe bài hát “Tìm lại bầu trời” do Tuấn Hưng thể hiện
Trong đó có câu hát:
Anh xin lỗi vì đã cướp mất khoảng trời của em
Nhưng có người sẽ cho em lại một bầu trời
Ở đây, người con trai thất tình, dưới mắt của người bình thường không thất tình, có cái nhìn rất hẹn hẹp: anh ta chỉ nghĩ đến duy nhất cô gái kia đã làm anh thất tình. Trong đầu anh ta chỉ nghĩ đúng về đối tượng đó. (Ai từng thất tình cũng hiểu điều này. Vì thế, chúng ta không nên trách họ, ha.) Và anh ta, vì đau buồn, còn ủy mị tới mức nghĩa rằng người ta bỏ mình vì mình làm sai, vì mình không tốt, đã không tốt lại còn giành đi khoảng trời tươi đẹp của cô gái. Anh ước gì (anh đang chỉ tự dối mình), người tốt đẹp hơn sẽ tới và mang lại cho cô gái cả một bầu trời đủ đầy.
Ta quay lại góc nhìn của ếch. Chúng ta — những người đọc và những nhà đạo đức học, hai nhóm này không exclusive — cho rằng cách nhìn bầu trời của ếch chưa đủ đầy vì ếch cả đời chỉ nhìn bầu trời qua một dấu chấm rất nhỏ, ấy là miệng giếng, mà thôi. Trong khi, ếch đã nói rõ về thế nào là cái hạnh phúc đủ đầy của mình.
Bài học đạo đức hay lối nghĩ bully
Có điều gì đó siêu vượt nếu ta nghĩ rằng hạnh phúc đủ đầy chính là khoảnh trời nhỏ bé mà chú ếch vẫn ngày ngày nhìn thấy. Chẳng phải, những lớp học thiền và niệm vẫn bảo người ta rằng, chúng ta cần nhắm mắt lại và đi tìm một dấu chấm nhỏ phát sáng trong màn tối vô tận ấy? Lẽ nào chính ếch mới là người ngộ ra được đạo?
Dưới ánh sáng của thứ triết lý cổ hủ về đạo đức, người đọc sẽ không tránh khỏi ham muốn răn dạy ếch, rằng mày bình tĩnh đi, mày không biết gì đâu, mày chỉ nhìn thấy miệng giếng, còn vòm trời kia rộng thênh thang, mày phải lên trên này nhìn mới thấy được (chỉ một phần mà thôi!). Nghĩ như thế, nghĩa là chúng ta không chỉ hiểu sai về hoàn cảnh của ếch (đã nói ở trên), mà còn ngang ngược răn dạy ếch từ bỏ lối sống và cách nghĩ của mình, để đi theo lối sống và cách nghĩ của chúng ta.
Nhỡ đâu, lên miệng giếng và ngoài một thời gian, ếch lại trở nên depressed và chịu không nổi xã hội “tiêu thụ” — một thế giới của những kẻ chỉ biết tiêu thụ văn hóa (đi khắp năm châu bốn bể) mà không biết dùng kiến thức ấy để chăm bón cho sự hiểu về cái khác biệt giữa mình với người (thay vào đó răn dạy kẻ sống ở dưới giếng). Hình tượng rùa trong truyện này không khác với hiện tượng cultuobèse (béo phì văn hóa) tôi đã đề cập là bao.
Tóm lại sự bully của những-người-ngoài-giếng trong câu chuyện này thể hiện ở hai điểm: (1) nhìn từ miệng giếng xuống một cách coi thường và không tin vào niềm hạnh phúc mà ếch có; và (2) coi thường “bầu trời” của ếch và răn dạy ếch phải sống khác đi, phải từ bỏ cách nghĩ và lối sống mà mình đã có. Từ đó, chúng ta nên thông hiểu hơn về vị trí nạn nhân của ếch, mà ếch bị bó buộc vào trong suốt… hơn hai nghìn năm qua.
Không phải là ếch không có cái sai. Giả như khi nước lũ tới (thu thủy) và lấp đầy giếng, nhiều khả năng là ếch không nhảy ra kịp, nhưng người chịu thông hiểu sẽ khuyên chú ta theo một cách khác: bằng sự quan tâm, chứ không phải bằng sự hung hăng chỉ ra rằng ếch là đứa ngu học. Bằng sự quan tâm, người ta sẽ học cách tôn trọng cái nhìn của ếch, để rồi nhận ra chính ếch mới là người biết trân trọng những khoảnh khắc của hiện tại. Ếch mới biết đâu là hạnh phúc.
Một lý do, theo tôi, là khuynh hướng thiên hữu của người Việt, và sự thiên hữu này bị đẩy dần về phía cực đoan khi người ta dùng mạng xã hội, đặc biệt là Facebook quá nhiều. Số liệu chính xác cho điều này chưa có, nhưng tôi quan sát được là từ gần chục năm nay, các nhóm FB và KOL thích đi ngược dòng, chỉ trích người khác là “ngu học”, là bolero cải lương ẽo ợt, là “gái tính”, etc. đều có khuynh hướng thiên hữu. Một số liệu gián tiến đến từ người Việt ở nước ngoài: tỉ lệ rất cao trong số họ ủng hộ Trump.
Theo bài báo này của The Economist, trong số người Mỹ gốc Á, tỉ lệ người gốc Việt có khuynh hướng theo đảng Cộng hòa đặc biệt cao. Và chỉ có duy nhất nhóm người Mỹ gốc Việt có khuynh hướng thiên hữu nhiều hơn thiên tả (40% so với 25%). Thiên tả nhất là người gốc Ấn, gốc Nhật và Hàn.

Tôi nghĩ đây chỉ đơn giản là “chuyện” thôi, chứ chưa phải là “truyện”, vì cách xây dựng nhân vật có vấn đề. Xét về mặt sinh học, ta không khỏi tự hỏi loại rùa biển nào lại bò lên đến tận nơi có giếng. Nếu Trang Tử theo phong cách hậu hiện đại thì có thể hiểu được phần nào.