Khi người đọc tham gia vào chuyện kể
Các giai thoại, sự khả tín và thủ thuật đặt layer của người viết
Với những ai thích đọc văn học Mỹ đương đại, có hai cái tên tuy không thực sự là mới nhưng tôi vẫn luôn recommend là Nicole Krauss và Joshua Cohen. (Tôi có nhắc qua ở bài này.) Tôi bắt đầu bị cuốn vào cách kể chuyện của Nicole từ khi đọc Forest Dark, một tiểu thuyết, và sau đó là tập truyện ngắn To Be a Man. Cuốn đầu hơi “khó vào” vì tác giả đặt luân phiên lời kể của hai nhân vật, hai cuộc đời khác xa nhau, một nam (già) và một nữ (trẻ). Nicole Krauss còn thể nghiệm đôi chút với hậu hiện đại; người đọc sẽ bị khớp ở điểm này vì ở blurb lẫn các bài giới thiệu sách, đa phần đều không đả động đến. Thực tại pha trộn chút huyền ảo. Nhân vật thỉnh thoảng, chỉ sau một trang sách, bước vào chiều không gian khác.
Khoảng một năm sau khi đọc xong Forest Dark tôi mới nhận ra sự pha trộn giữa các thực tại này có tác động thế nào. Một điều tất yếu, nó kích vào trí tưởng tượng của ta. Nó tạo ra những layer, kiểu như một hình ảnh cụ thể — một tòa nhà chẳng hạn — bạn có thể đặt những dạng filter khác nhau như trong Instagram. Hình ảnh đọng lại trong đầu tôi là tòa khách sạn nhìn về hướng biển tại một thành phố Israel mà nhân vật nữ lánh cuộc sống gia đình của mình sang ở một thời gian, tìm cách hanh thông sự viết đang bế tắc (cô là nhà văn). Một lần tôi đến ở resort ở Nha Trang, nhìn khung cảnh tôi nghĩ tới ngay tòa khách sạn trong Forest Dark. Và không hoàn toàn ngẫu nhiên, chủ đầu tư resort này là người Israel.
Cả hai cùng là gốc Do Thái nhưng Joshua Cohen có lối bóc tách suy nghĩ gần với một rabbi hơn; đúng hơn là, giống một rabbi đang chơi nhạc thể nghiệm, hay một rabbi thích nổi loạn. Còn Nicole dịu dàng và êm ả. Leo Robson vừa mới mở substack và có một bài nói chuyện với Joshua ở đây. Tôi cũng viết một bài về cuốn tiểu thuyết The Netanyahus vừa đoạt giải Pulitzer mảng hư cấu, trên tờ Tuổi trẻ cuối tuần.
Những cuốn tiểu thuyết trước của Joshua không hề dễ đọc, nên nếu quan tâm bạn có thể bắt đầu với The Netanyahus. Cuốn này “dễ vào” vì được khởi sinh từ một giai thoại liên quan đến những người đương thời. Giai thoại ấy như sau:
Hơn một năm trước khi Harold Bloom qua đời, ông có nhắn cho Joshua và mời anh bạn trẻ này đến nhà mình nói chuyện. Ông đã từng đánh giá rất cao cuốn sách mới ra của Joshua, Book of Numbers. Trong một lần nói chuyện, tivi chiếu hình Bibi, ông thủ tướng gạo cội và tai tiếng của Israel; Bloom buột nói, ừ tao gặp thằng chả ở Mỹ rồi, hồi hắn mới mười tuổi. Joshua đặc biệt quan tâm đến giai thoại này, anh hỏi lại vài lần, và vợ Bloom cũng tham gia câu chuyện, khi hai ông bà cụ đều chỉ nhớ mang máng sự kiện đó, các chi tiết từ phía cả hai đôi khi không khớp nhau. Vài tháng sau Bloom qua đời, và đậu lại trong tâm trí Joshua là anecdote kể trên.
Giai thoại không nhất thiết là hoàn toàn sự thật. Nó đến từ lời kể của một người. Hoặc qua lời kể của người này kể cho người kia. Những chi tiết đến từ lời kể lại của một người không phải nhân chứng trực tiếp vì thế chỉ để nghe vậy biết vậy, không đáng tin lắm; và đây là sai sót mà nhiều cuốn hồi ký bằng tiếng Việt lậm vào. Kể ra tình tiết hấp dẫn để neo người đọc, nhưng vì không thực sự đáng tin, nên người ta ít muốn nhắc lại; tức là, những thứ ấy khó có thể dùng lại, nếu người chấp bút không tuân thủ một vài nguyên tắc đạo đức nhất định.
Rebecca Solnit khi viết cuốn sách về Orwell, còn nghiêm ngặt hơn, khi cho rằng nguyên tắc đạo đức không thể được xem như quân bài của người viết, muốn ngửa ra là ngửa, mà nó là một phần giá trị thẩm mỹ của tác phẩm, một phần chân lý của văn bản được viết.
Một giai thoại chỉ cần hơi thêm mắm thêm muối có thể đẩy nghĩa đi rất xa. Nghĩa đi xa tức là nó bị mất trật tự trong một tổng thể. Người chấp bút có nghĩa vụ đặt giai thoại vào đúng vị trí trong tổng thể và giữ cho nghĩa của nó nguyên vẹn hết mức mình có thể.
Trong bài phỏng vấn Leo Robson thực hiện có đoạn Joshua nói về Harold Bloom:
Harold was in many ways a frustrated poet and fiction writer, and he certainly let's say...overplayed some hands, in the interests of avoiding boredom. As do I, from time to time...as do, I suspect, most of us...we storify, we tell tall tales at short order. However, one of the things in that section that I will say is absolutely true was that he told me he was the model for Mickey Sabbath, which is nuts.
“Overplay” là khi người kể quá tự tin vào quân bài mình có, vì giai thoại này đặc biệt quá, vì chi tiết này chắc chắn sẽ neo giữ người đọc, vì thế người kể thường có khuynh hướng kịch hóa lên một tí, thêm chút mắm muối một tí, có chết ai đâu, mà lại làm câu chuyện kể thêm phần li kỳ, hấp dẫn. Nói nôm na là ai đó đang overplay chuyện kể, ta có thể nhận ra người đó đang… bốc phét.
Như Joshua nói, đó là hành vi khó tránh, vì khi ta kể, ta “storify” chuyện đó lên, ta biến tình tiết trở thành chuyện, và đôi khi vì thế ta đặt nó hơi sai vào một trật tự mà nó không thuộc về. (Một trong những giai thoại Bloom kể, mà theo Joshua, là chính xác khi ông nói mình là hình mẫu cho nhân vật vô cùng khó quên Mickey Sabbath của Philip Roth.)
Christian Lorentzen có lần chỉ trích khá thậm tệ cuốn tiểu sử con gái Karl Marx, Eleanor Marx: A Life của Rachel Holmes. Qua lời kể của người viết tiểu sư, khi Eleanor ra đời vào lúc tảng sáng một ngày thứ Ba năm 1855, ông bố Karl Marx đang:
Puffing anxiously on a cigar in the corner of the overcrowded room at 28 Dean Street is Europe’s greatest political scientist. Karl and Jenny Marx have another child.
Còn ở gian trong, Jenny vợ Marx đang uống một liều cồn thuốc phiện để giảm đau:
Sweetened with honey, liquorice and anise, the laudanum adds spice and caramel scents to the overheated atmosphere. The reassuring aroma of strong German coffee mingles with the tang of blood, camphor, tobacco smoke and coal dust. Elegant and solidly expensive, the Kaffeekanne, a wedding gift from Jenny’s mother, looks out of place amongst cracked crockery, shabby, cramped surroundings and dilapidated furniture.
Đấy là những chi tiết kiểu “nói vậy biết vậy”, vì viết tiểu sử không nhất thiết phải dẫn tường tận các nguồn sử liệu (người biên tập và nhà xuất bản sẽ phụ trách đối chiếu, và khi thấy cần họ cắt bớt cho sách đỡ rườm rà.)
Lorentzen chỉ trích người viết và ban biên tập làm ẩu, tìm cách neo người đọc và chạy doanh thu. Nhưng tôi lại thấy cách viết này khá lạ và ép phê. Người viết chủ động quan sát (hình dung) những thứ không nằm trong khung cảnh chính để tạo layer, kích trí tưởng tượng của người đọc. Chúng tìm cách cởi trói cho người đọc. Và như đã nói ở trên, tạo layer là thủ thuật của người viết hư cấu. Còn để nói một cuốn sách tiểu sử kể như vậy có đáng tin và thuyết phục hay không, có lẽ tôi sẽ dành thời gian để đọc nó trước đã. (Lorentzen rất đạt trong vai trò nhà phê bình; review chê nhưng vẫn khiến người ta muốn đọc cuốn sách, vì thấy nó có sức hút.)
Trở lại The Netanyahus. Vì là tác phẩm hư cấu nên tác giả có quyền tự tung tự tác. Hình ảnh thật của Harold Bloom chỉ thoáng phảng phất trong nhân vật Blum. Nhưng Netanyahu là gia đình có thật, ông con Bibi vẫn còn sống và còn rất quyền lực. Nếu như nhà văn đi quá xa, gia đình Netanyahu vẫn có thể kiện ngược vì tội phỉ báng. Ở khía cạnh hư-cấu-các-nhân-vật-có-thật này, tôi thấy đáng nhớ nhất là các phân đoạn thành viên nhà này cãi vã nhau, hục hặc qua lại, rồi qua đó làm phiền gia đình người host là Blum. Khi nhà Netanyahu xuống xe và cả năm thành viên (bố mẹ và ba đứa con trai) lũ lượt kéo vào nhà Blum, nhà văn mô tả bà mẹ:
Cảnh bầy trẻ hú hét, việc bọn chúng lem dấu giày lên tấm thảm giả Ba Tư hẳn nhiên đến từ trí tưởng tượng của người viết. Và nhân vật Tzila, bà mẹ nửa hư cấu nửa có thật hiện lên như sau: bà quá bực và thốt lên một lời gì đó, có lẽ là một từ tiếng Hebrew, “a single word impatiently and densely packed, tensed, declined, and gendered”. Lời mô tả này nặng về cuối và được nhấn bằng từ sau cùng “gendered”. Một lời thốt lên mà “gendered”, ta có thể tưởng tượng hình ảnh người nói, cái âm thanh ấy của họ, dường như ra sao. Người đọc được di chuyển đến gần nhân vật, giống như Tzila đang đứng trước mặt chúng ta, giống như ta đang đứng ngay cạnh tấm thảm chùi chân vậy.
Và tiếp sau đó, vừa nghe mẹ chúng thốt lên, cả ba thằng bé đều đồng loạt đứng như phỗng: chúng “đứng hình”, hai đứa lớn trên thảm, đứa út đứng trên sàn gỗ, và chúng bắt đầu tháo những dây giày được buộc vào quá mức. (Phải chăng bà mẹ là người buộc dây giày cho chúng? Bà buộc cho cả ba đứa, dầu rằng đứa lớn nhất đã mười ba, mười bốn tuổi?)
Suy cho cùng, tôi không đồng tình lắm với ý kiến của Lorentzen, rằng mô tả quá trớn, cầu kì văn vẻ và li kỳ hóa sự thật là làm sách ẩu, là chạy theo doanh thu. Ông kết bài điểm sách rằng: “But why did Holmes and her editors think it best to deliver her ample research in such a purple package? It must be something to do with capitalism.” Tôi nghĩ, dù vai trò kể của người viết tiểu thuyết và người viết tiểu sử khác nhau, Joshua Cohen và Rachel Holmes đều đang muốn nâng điểm nhìn người đọc lên một vị trí khác: người đọc không đứng từ bên ngoài và được “dẫn” cái nhìn của mình vào khung cảnh của nhân vật. Mà người đọc được tham gia vào.1
Đây chỉ là một nhận định. Quãng năm 2010, theo tôi, đánh dấu thay đổi lớn trong cách kể chuyện (và như tôi dẫn ra một ví dụ, thay đổi này có thể tác động ở cả mảng hư cấu lẫn phi hư cấu). Ta có những tiểu thuyết lịch sử mà người đọc được can dự nhiều hơn vào đời sống nhân vật: The Song of Achilles và Circe của Madeline Miller, Piranesi của Susanna Clarke, hay Hamnet của Maggie O'Farrell. Không chỉ được nhìn vào đời sống nhân vật (mà tác giả, bất kỳ ai cũng tìm cách tái hiện), người đọc còn có thể tưởng tượng ra mình đối thoại, đặt mình vào các tình huống khả dĩ của phía sau cảnh trí đó. (Giống như họ đang chơi game The Stanley Parable vậy.)