Tôi muốn dành bài đầu tiên, trong ngày đầu tiên của năm 2021 (năm của sự reset) để nói về Phụ nữ, một trong những trọng tâm mà khi mở trang Marginalia tôi đã hình dung mình sẽ cần phải nhắc đến nhiều. Hay mở rộng hơn, tôi sẽ nói thêm về giới (gender), những điều bên lề và các myth liên quan đến giới.
Trước tiên, để cho rõ, có hai cái bẫy tôi không muốn mình rơi vào.
Tôi không muốn mình giống một anh cán bộ đoàn đứng trên sân gạch hợp tác xã, tay bắc loa rêu rao rằng, e hèm, từ ngày 1 tháng 1 năm 2021, mỗi hộ trong thôn phải sắm một cái máy rửa bát để từ nay về sau các chị em không còn phải lích kích căm cụi sau mâm cỗ mà có thể sum họp bên ấm nước chén trà cùng các anh các chú.
Tôi cũng không muốn đăng đàn tuyên ngôn rằng, chẳng hạn: Mọi giới đều có cảm xúc, và không cảm xúc của giới nào là bình đẳng hơn những cảm xúc của giới khác. Và để tiến tới bình đẳng giới thì người đàn ông phải thay đổi thế này hay thế khác.
Cả rêu rao lẫn tuyên ngôn đều là hai thái cực tôi muốn tránh. Tôi muốn đưa ra nhận định của mình từ góc nhìn của một người quan tâm đến giới và các tiếng nói bị đặt ở bên lề từ trước khi có phong trào #MeToo. Lăng kính của #MeToo, theo tôi, có thể trở thành phương tiện dễ dàng để đưa đánh giá của mỗi chúng ta về phái và giới vào ngõ cụt của cả rêu rao và tuyên ngôn. Rơi vào ngõ cụt cũng tức là nhập hai thứ ấy làm một. (Một biểu hiện gần đây nhất của ngõ cụt chính là “văn hóa cancel rốt ráo”). Không gì nguy hiểm bằng anh cán bộ đoàn trở thành một KOL có tí chữ.
Tôi muốn nói về phụ nữ không phải như một đối tượng của rêu rao hay tuyên ngôn, tức là đối tượng mà việc cần phải có cái máy rửa bát trỏ tới, để qua đó làm bản thân tôi trông có vẻ tốt hơn là nó vốn dĩ. Tôi muốn nói đến phụ nữ trong sự liên hệ, tôi khuyến khích bạn đọc của tôi đặt mình vào vị trí ấy, tâm trạng ấy, lựa chọn ấy (dĩ nhiên tôi phải làm điều đó trước) và liên hệ tới bản thân họ. Họ không nhất thiết phải trở nên tốt hơn (mà rốt cục “tốt” nghĩa là gì?) hay an tâm hơn hay hạnh phúc hơn. Mà để họ chấp nhận và tri nhận những cái “khác”, kể cả một hình dung khác về bản thân mình.
Nói đến phụ nữ thì một bài là không đủ. Nhưng tại sao tôi lại nhắc đến đề tài phụ nữ? Và vì sao lại liên hệ tới bình đẳng giới ở Việt Nam?
Tôi để ý trong năm qua Viện Pháp tại TP.HCM có tổ chức một số sự kiện liên quan đến đề tài phụ nữ, như tọa đàm “Phụ nữ và văn chương”, hay hội thảo “100 năm nữ quyền tại Việt Nam”. Đó đều là các đề tài thú vị và có thể kích hoạt những thảo luận sâu như giới nữ là gì và người Việt Nam hình dung về phái nữ và tính nữ như thế nào. Nếu Hương Giang Idol xuất bản một tác phẩm văn học gây chú ý thì liệu họ (they/them) có được xem là phụ nữ viết văn?
Tuy nhiên, điều tôi muốn bàn sâu hơn là trailer của cuộc hội thảo nói trên. Mời các bạn xem trailer đó ở đây. Tôi trích dẫn lời của từng người được phỏng vấn, theo thứ tự NS1 [người số 1], NS2, …
NS1: “… người phụ nữ hiện nay tiến bộ ghê lắm…”
NS2: “Phụ nữ Việt Nam ngày nay rất bình đẳng với nam giới”
NS3: “Phụ nữ Việt Nam ngày nay đã bình đẳng không chỉ với nam giới và còn với nhiều người khác nữa… nhưng mà đó chỉ là một hiện tượng ở những thành phố lớn”
NS4 [nước ngoài]: “Women [in Vietnam] gets to do all the same jobs as men without any discrimination”
NS5 [nước ngoài]: nói dài dòng kiểu người Pháp, hết 5 câu mà không trích được thông tin gì
NS6: “Phụ nữ đã bắt đầu có quyền hơn…”
NS7 [nước ngoài]: “… women are still very objectified” [phụ đề được dịch là “phụ nữ vẫn còn rất dễ bị tấn công” (??!) (phút 2:33)]
Ta thấy người thực hiện phỏng vấn đã lấy mẫu (sample) rất đẹp: có cả người Việt lẫn người nước ngoài, cả nam lẫn nữ, cả già lẫn trẻ. Có 4 người Việt trả lời, chỉ có NS6 là thể hiện quan điểm hoài nghi rõ ràng, rằng việc đối xử với phụ nữ còn có “những mặt khuất”. Cả 3 người còn lại đều cho rằng ít nhiều đã có bình đẳng, thậm chí có người còn bảo là “rất bình đẳng” và bình đẳng “không chỉ với nam giới” (mà còn với người trẻ hơn, người già hơn, người có các địa vị khác, chắc ý họ là thế). Riêng NS3 ghi nhận là có bình đẳng nhưng đã khéo léo chêm vào một warrant (chừa cho mình một đường lùi) là chuyện đó chỉ xảy ra phổ biến ở các thành phố lớn.
Như vậy một clip nhỏ có thể nói lên nhiều điều. Về mặt kỹ thuật, người lên kịch bản và đạo diễn clip trên đều có am hiểu về phương pháp phỏng vấn và nghiên cứu định lượng, họ chọn mẫu rất tốt. Không biết đó có phải ý đồ đằng sau không, nhưng một điểm tôi rút ra từ clip là người Việt (qua những người được phỏng vấn): (1) có hiểu biết tương đối sơ sài về bình đẳng giới, (2) có cái nhìn ngây thơ về các hiện tượng xã hội, và (3) có cách trả lời khi “lên sóng” rất thảo mai (tức là đôn mọi thứ lên tích cực hơn nó vốn thế).
Hai điểm (1) và (2) đều cho thấy hình ảnh về phụ nữ ở Việt Nam vẫn còn bị “đối tượng hóa” hay “vật hóa” như lời NS7. Tức là, đã có máy rửa bát, đã có những sếp nữ, đã có người lái xe hơi nữ, như vậy có phải bình đẳng không? Câu trả lời là: chưa phải và chưa đủ. Ở một nơi (thiên đường XHCN chẳng hạn) mà nữ hoàn toàn bình đẳng với nam, thì phụ nữ vẫn sinh con đấy thôi, có phải nam sinh hộ đâu? Nhưng ở đó, những điều kiện xoay xung quanh người phụ nữ sẽ khác. Đó là lý do mà khi mở ra Marginalia, tôi đã nhấn mạnh về tầm quan trọng của những thứ bên lề.
Một cái Bên Lề (A) có thể nói nhiều điều cốt yếu về sự Ta Tồn Tại (B). Hay nói một cách khác: A quy định B.
Tôi sẽ phân tích câu trả lời trên, rằng có máy rửa bát, có những sếp nữ, có người lái xe hơi nữ, nhưng chưa phải là và chưa đủ để có bình đẳng giới.
Vì sao chưa phải?
Đôi khi chúng ta nhầm lẫn giữa hiện tượng xảy ra khi mindset con người thay đổi với khi điều kiện kinh tế và thị trường cho phép hiện tượng đó xảy ra. Máy rửa bát có thể giúp người phụ nữ đỡ phải rửa bát để dành thời gian trông con và làm những việc nội trợ khác, như nấu nhiều món ngon và phức tạp hơn để chiều chồng (vì dĩ nhiên, có máy rửa bát người ta sẽ có khuynh hướng bày nhiều hơn). Thay vì một giờ rửa bát ông chồng tận thu được 2 đồng thì một giờ trông con ông chồng tận thu được 5 đồng (vì chi phí thuê cleaner thấp hơn chi phí thuê nanny, ví dụ thế).
Có người lái xe hơi nữ vì trước tiên Việt Nam khác với Ả Rập Saudi khi mà nơi này từng có luật cấm phụ nữ lái xe. Hai là, nhìn từ góc độ hãng bán xe hơi, ta sẽ muốn mở rộng thị trường sang các phân khúc khác, và phụ nữ chiếm nửa dân số, vậy thì tại sao không? Tôi sẽ cho marketing chạy các chiến dịch khích lệ phụ nữ lái xe, tôi sẽ cho thiết kế các dòng xe mới hợp thị hiếu phụ nữ hơn. Khi đó ta có phụ nữ lái xe hơi nhưng không nhất thiết có bình đẳng giới. (Ở bài khác tôi sẽ phân tích vì sao cái dây an toàn trên xe hơi được thiết kế không phải dành cho phụ nữ.)
Việc có sếp nữ thì nhập nhằng hơn vì liên quan đến thị trường lao động. Tôi muốn đưa ra case sau đây để cho thấy rằng, môi trường việc làm mang nhiều quyền lợi cho phụ nữ hơn có thể dẫn đến phụ nữ khi sinh con dùng parental leave nhiều hơn và bị đứt đoạn với công việc toàn thời gian, vì thế, có sếp nữ còn là chưa đủ.
Vì sao chưa đủ?
Nếu bạn có tiếp xúc ít nhiều với lịch sử thiên đường XHCN, chắc hẳn bạn đã bắt gặp một myth sau đây: phụ nữ ở các nước XHCN bình đẳng với nam giới hơn phụ nữ ở các nước TBCN. Gọi là myth hay “huyền thoại” vì đôi khi tôi thấy nó đúng, đôi khi thấy nó sai, nhưng đa phần thì mông lung.
Tờ Economist có một bài về sự khác biệt giữa Đông Đức và Tây Đức trong thị trường việc làm dành cho phụ nữ. (Bản pdf của bài báo ở đây nhưng lề hơi bị lẹm tí, thông cảm đi ha.) Lưu ý là trong phạm vi bài này tôi dùng từ “Đông Đức” và “Tây Đức” để chỉ hai miền của nước Đức từ trước khi tường đổ cho tới tận bây giờ. Ba mươi năm sau ngày thống nhất, dù ranh giới giữa hai miền đã nhòa đi, nhưng sự phân biệt vô hình vẫn còn tồn tại. Cách gọi có phần mỉa mai Wessi và Ossi vẫn khá phổ biến.
Số liệu từ biểu đồ 1 cho thấy tỉ lệ phụ nữ ở Đông Đức hồi pre-tường đổ đi làm toàn thời gian nhiều hơn; và ngược lại, tỉ lệ phụ nữ Tây Đức đi làm bán thời gian nhiều hơn. Theo bài báo, trong khi phụ nữ ở miền Đông lương thấp hơn nam giới 7%, chênh lệch này ở miền Tây là 22%. Vì thế bên Tây Đức phụ nữ đi làm toàn thời gian ít hơn vì nếu chồng đi làm, vợ ở nhà nuôi con thì sẽ lợi hơn là chiều ngược lại. Bài báo lý giải, sở dĩ phụ nữ ở Đông Đức đi làm toàn thời gian nhiều hơn là do chính sách của nhà nước và định hướng của Đảng; còn ở Tây Đức hồi xưa, nhà nước và nhà thờ khuyến khích các bà mẹ sinh con nên ở nhà. The Economist chỉ ra rằng Đông Đức cũ khuyến khích mô hình “dual-earner” (hai thu nhập), trong khi Tây Đức khích lệ “single-earner”.
Biểu đồ 2 cho thấy phụ nữ ở Đông Đức nhìn chung đồng tình rằng người mẹ đi làm toàn thời gian vẫn có thể chăm sóc tốt con nhỏ không khác mấy so với người mẹ không đi làm. Sự liên hệ của biểu đồ 2 tới biểu đồ 1 chỉ ra góc khuất của quan niệm “làm việc cật lực” kể cả khi vừa mới sinh con, đó là: khi điều kiện kinh tế khá hơn, phụ nữ nên/xứng đáng được nghỉ chăm con (thể hiện ở đường đổ dốc bên Đông Đức sau 1989, biểu đồ 1), và đôi khi việc nghỉ chăm con này khiến họ bị đứt đoạn với thị trường việc làm toàn thời gian (thể hiện ở đồ thị bán thời gian tăng dần ở cả hai bên, biểu đồ 1).
Ngược lại, từ biểu đồ 1 nhìn qua biểu đồ 2, ta thấy rằng bình đẳng giới có thể đến từ chính sách và những ý tưởng khởi xướng (như việc khích lệ phụ nữ lái xe) và từ đó tác động tiếp đến mindset của người dân. Rõ ràng nhất là quan niệm khác nhau giữa các thế hệ. Thế hệ sinh trước năm 1950 đa phần đồng tình với quan điểm rằng người mẹ cần và đôi khi buộc phải đi làm toàn thời gian vì họ đã trải qua những năm hậu chiến đói kém, không làm cật lực thì không có mà ăn, điều kiện làm việc và chênh lệch lương với đàn ông đối với họ có thể là thứ yếu. Thế hệ sinh sau 1975, số phụ nữ đồng tình đã ít hơn hẳn.
Nói về chuyện mindset, nhiều bạn bè tôi thuộc thế hệ cuối 8x cho rằng đời sống gia đình hài hòa và lý tưởng là khi cả vợ và chồng đều làm việc toàn thời gian, người vợ không chỉ ở nhà nội trợ và chăm con mà còn có thể kiếm đồng lương phụ cùng với thu nhập của chồng. Nghe thì dường như mô hình “hai thu nhập” mang lại bình đẳng giữa vợ và chồng, nhưng khi xét đến con cái, mô hình đó chưa hẳn là bền vững trong một xã hội mà phụ nữ ngày càng ngại có con vì quá cực và nhiều trở ngại cho sự phát triển của bản thân. (Lưu ý rằng cả hai bên conservative và liberal đều có những lập luận chống lại mô hình hai thu nhập.) Tại sao không phải là người chồng ở nhà nội trợ và chăm con? Để hiểu thêm về cuộc đấu tranh của một “house husband”, bạn có thể đọc A man in love đã nhắc đến trong bài reactionary.
Ở bài sau, tôi sẽ khoét sâu vào các điều kiện bên lề, tưởng chừng như vu vơ nhưng lại quy định phụ nữ không thể như thế này, không thể như thế khác. Tôi sẽ bắt đầu bằng một bìa tạp chí Vanity Fair.