Tôi sẽ đưa ra hình dung của mình, đơn giản nhất có thể: chân lý có vóc dáng của những ngôi nhà.
1.
Nhà là một khái niệm dường như vô chừng. Ngôi nhà có thể như dưới đây, hogan của người Navajo, bộ tộc ngày nay cư ngụ ở bang Arizona và New Mexico, Mỹ
Nhà nằm trong một cộng đồng và mang những nét riêng của cộng đồng đó. Đây là nhà của người Sotho (“Basotho Hut”), sống ở Lesotho và Nam Phi.
Đó là những dạng nhà đơn sơ, được xây bằng đá và cát. Ở Việt Nam, nhà lá, nhà tranh rất quen thuộc với chúng ta. Tôi chỉ tìm được hình sau trên Wiki. Caption của nó là “Một nhà ở với sàn ván, ván vách và mái lợp bằng lá ở Thoại Sơn (An Giang, Việt Nam)”.
Đi lên cao nguyên một chút, nhà lá của người H’Mông có vóc dáng như sau.
Nhà lá dĩ nhiên được làm từ lá, tre, nứa… Rất bio và gần gũi với thiên nhiên.
Những kiểu nhà hiện đại, các bạn có thể tự nghĩ đến. Nó có thể là nhà cấp bốn, nhà dạng hộp nhiều tầng dành cho một hộ gia đình. Nó có thể là flat gồm nhiều hộ chia sẻ cùng một blốc nhà, chẳng hạn four-in-a-block. Nó có thể thật cao, thật to, trang hoàng và hiện đại. Nhưng vấn đề ở đây là gì?
2.
Nhà được xây nên, đơn giản nhất, để che mưa che nắng, để chống chọi với tự nhiên.
Nhà được xây nên, vì mong muốn của con người là được tĩnh. Trái Đất xoay tròn, bốn mùa luân chuyển, tự nhiên có mưa và nắng, có ngày và đêm. Con người cần chỗ để cư ngụ và được yên để kiếm sống. Người Việt có câu “an cư lạc nghiệp”, nhấn mạnh mong muốn được tĩnh tại, an yên và được tự do làm việc mà không gặp phải những rào cản về tự nhiên, địa lý, và mỗi người có một chức phận trong xã hội.
Chữ lạc (樂) cũng nằm trong chữ hưởng lạc (享樂). Ở nhà chơi với bầy chó, bầy mèo, trồng cây, nuôi hoa, đọc sách, chờ bitcoin lên, cũng là một dạng hưởng lạc. “Lạc nghiệp”, theo tôi, có một phổ rất rộng. Cắm mặt làm văn phòng từ sáng đến tối, mỗi ngày riêng khoản đi lại hết ba tiếng đồng hồ, như cách nói của người Pháp, métro, boulot, dodo, thì còn cách chữ “lạc” khá xa.
Một nơi ở mang lại cho ta sự tĩnh, được an, được yên, bản thân nó đã là chữ phúc rất lớn. Có lẽ phần lớn trong bảy tỉ con người trong thế gian này, suy cho cùng, cũng chỉ hướng đến điều đó. Họ phấn đấu, làm lụng cả đời để hướng đến điều đó. Còn xa hơn và cao hơn chỉ dành cho thiểu số. Sách Đại học của Khổng Tử có câu: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Hai vế sau để dành cho thiểu số, phần đông chúng ta không quan tâm.
3.
Chân lý (真理) là mối dây nối, tìm cách nắm bắt mối tương quan giữa cái bên trong và cái bên ngoài con người, giữa cái nội tại trong ta và các hiện thực ở thế giới bên ngoài. Tức là nó hẳn có một hình hài nào đó. Việc chúng ta viết, chúng ta nói cũng là một dạng phô bày mối tương quan đó để những người khác chung quanh có thể hiểu được suy nghĩ, cách ta nhìn, cách ta nghe, cách ta chạm vào thế giới bên ngoài. The Waves của Virginia Woolf — viết về sáu nhân vật kể chuyện đời của họ — dưới hình thức độc thoại nội tâm, thể hiện rất tinh tế mối tương quan này.
Khi bạn An kể về việc bạn í nghĩ về chiếc lá đang lung lay trên cây, bạn í đang mô tả hình dung của bạn về chiếc lá, về cái cây, về sự lung lay, và thể hiện mối tương quan giữa suy nghĩ ấy với một cụm các biểu hiện ngoài thực tế (lá, cây, đung đưa, tiếng xào xạc), và truyền đạt mối tương quan ấy cho những người khác.
Vấn đề ở đây, là chân lý yêu cầu mối dây nối ấy không phải thứ tượng trưng. Nó phải phản ánh chính xác mối tương quan. Tức là cái lá là cái lá, chứ không phải cái chai. Điều này có thể đơn giản như 1+1=2. Nhưng khi ta tiến đến khái niệm phức tạp hơn, chẳng hạn:
Bạn An có buồn thật không? Đúng, bạn ấy đang buồn.
Chúng ta cần coi buồn là một trạng thái xác định được. Nếu định tính được hay mang cho nó hình hài cụ thể thì tốt, chẳng hạn đo thân nhiệt hoặc nhân điện, nếu kim chỉ về màu đỏ thì là buồn, kim chỉ màu xanh là vui.
Việc đo lường này là ví dụ thô sơ về vai trò của khoa học trong việc đi tìm chân lý. Đó là một câu chuyện dài khác, nhưng chúng ta thấy một thực tế là chân lý đôi khi rất khó nắm bắt, nó chạy loằng ngoằng ở đâu đâu, và đi tìm chân lý là một con đường dài. Học sinh làm những phép toán để chứng minh đẳng thức, bất đẳng thức, chỉ là một cách thể hiện sự “đi tìm” tương đối giản lược. Thực tế không bao giờ dễ dàng như vậy.
4.
Nếu chân lý có hình dạng như ngôi nhà, thì việc đi tìm chân lý giống như ta đi xây nhà vậy. Tôi nói “xây nhà”, nhưng muốn chỉ đến một phổ hành động tương đối rộng, giống như đi tìm sự “an cư”. Xã hội hiện đại không cho phép ta thích xây nhà ở đâu là xây được. Việc chúng ta đi tìm nơi chốn để đi về, để được an, yên và tĩnh tại cũng là một cách “xây nhà”. (Tạm hiểu là ta kiếm được 300k, mua một ngôi nhà ưng ý ở Phú Mỹ Hưng, cũng là xây nhà đi ha.)
Xây nhà là một quá trình. Ngôi nhà chúng ta xây nên sẽ có một cấu trúc, nó lớn lên và phình ra dựa trên những cơ sở nhất định — tạm gọi là hạ tầng — và cơ sở đó đóng vai trò tương tự như các facts. Đá thì cứng, cát thì mềm, nhưng đá trộn với cát và các chất phụ gia (đất sét, vỏ này vỏ kia, hay đại loại) tạo thành chất kết dính, như xi măng hay bê tông. Những cấu trúc vững vàng hình thành từ kinh nghiệm, kinh nghiệm hình thành từ cách con người giao du với trời đất, chẳng hạn mái lá hay gạch phải có hình vòm hay tam giác, chứ mái bằng thì dễ sập.
Việc xây nhà — và nói rộng ra, đi tìm sự “an cư” — còn được quy định bởi các thiết chế xã hội. Mỗi chính phủ, hay hội đồng bô lão của bộ lạc, quy định chúng ta được xây nhà ở chỗ này hay chỗ kia, cao chừng nào, rộng bao nhiêu, có vườn hay được đào ao hay không. Dầu rằng mong muốn “an cư” là ý chí mỗi người, nhưng chuyện xây nhà không phải tùy hứng cá nhân. Nó được quy định bởi các yếu tố xã hội và lịch sử. (Nói đơn giản, vì không phải nơi nào trên trái đất cũng như nhau, các xã hội được quy định bởi thổ nhưỡng từng nơi đó.) Và yếu tố thiết chế giải thích vì sao, đi tìm chân lý bằng khoa học không đơn giản như chúng ta nghĩ.
Mà lịch sử, như tôi đã bàn qua, là một thể sống. Chúng ta có thể xem clip này để tạm nắm bắt, tại sao đất nước Nam Phi, nhiều năm sau khi xóa bỏ nạn apartheid, vẫn tồn tại ranh giới phân định đâu là nhà của người da trắng, người da đen hay châu Á. Người màu da nào cũng có khao khát được an cư, và khao khát của mọi màu da đều được tôn trọng như nhau, hay ít nhất là thiết kế của các thiết chế chính phủ hiện đại hướng đến điều đó, nhưng lịch sử chảy như dòng nước, nó làm đá cũng phải mòn, và đá mòn thì không thể tròn trở lại được.
Túm lại, đi tìm chân lý là một quá trình gần giống như việc ta xây nhà. Hướng đến một nơi để ở, để an yên và tĩnh tại, là mong muốn đơn sơ nhất của con người. Ngày xưa con người phải vượt qua giới tự nhiên, phải leo đồi, đắp đất. Còn giờ đây, xã hội hiện đại dường như ngăn cản chúng ta thực hiện việc đơn sơ đó theo những cách khác. Xây nhà đâu chỉ cần nền móng và các vật liệu, và từ kinh nghiệm của chúng ta, là xong. Các thiết chế có thể khích lệ hay cản đường việc đó.
***
p/s: Hai hôm nay, người ta xôn xao về cách dùng chữ “di biến động dân cư” (báo Tuổi trẻ gọi đó là nói gộp; báo Thanh Niên cho rằng từ này tào lao, đề nghị chuyển thành “khai báo di chuyển nội địa”). Chuyện “mobility” này liên quan tới một ý tôi có thể triển khai sau: mất an cư là mất chân lý, cảm giác mất an cư kéo theo cảm giác ta không còn chạm tới sự thật, và việc không tiếp cận được an cư khiến một phần không nhỏ trong xã hội uất ức và nó là mầm mống cho việc hủy hoại social fabric và tạo nên social distrust.
Tôi không rõ lý do nào mà các cơ quan công quyền lại dùng từ ngữ loằng ngoằng như thế, nhưng các bạn có thể ghé bài cũ tôi viết về:
Sự không hoàn hảo của việc vay mượn tiếng Hán
Cảm giác mất an cư và nỗi cô đơn của con người