Khi viết bài “Thế nào là lịch sử (1)”, tôi chưa đọc được thông tin rằng môn lịch sử sẽ trở thành môn học bắt buộc, thay vì tự chọn, trong chương trình trung học phổ thông ở Việt Nam, kể từ năm học 2022-2023. Người ta nói nhiều về tăng tiết, về việc thay đổi tổ hợp các môn cho các phân ban X, Y, Z; một số ít hơn bàn việc dạy sử như thế nào cho học sinh tăng phần yêu mến môn học. Nhưng chưa một ai đưa ra câu hỏi cốt yếu: thế nào là lịch sử.
Khi đưa ra một cách cắt nghĩa, rằng lịch sử lớn đến từ những lịch sử nhỏ, lịch sử là phản tư, và lịch sử là thể sống, tôi muốn đi tìm sự kết nối giữa lịch sử lớn và lịch sử nhỏ. Lịch sử lớn, history, có thể là diễn trình của một dân tộc, được định hình trong thẩm-quyền-kể của nhà nước, của tầng lớp tinh hoa. Lịch sử nhỏ, ví dụ histories và life-histories, có thể chuyện kể của mỗi cá nhân và gia đình, qua lăng kính của một người hay một nhóm hay một cộng đồng.
Cả hai khái niệm ấy, lịch sử lớn và lịch sử nhỏ, đều thành hình nhờ narrative, tuy rằng cùng chữ narrative ấy có thể hiểu rất khác: Ở một thái cực, narrative là tự sự, là kể, là chuỗi mắt xích những ý niệm tuôn trào, một cách tự nhiên và ít bị chi phối bởi ý chí. Ở thái cực khác, narrative là luận điệu, bị tác động mạnh bởi ý chí (đa phần là ý chí tập thể); nó được khoác một tấm áo mới (điệu), và mang tiếng nói của thẩm quyền (luận).
Tôi không muốn nói lich sử lớn hay lịch sử nhỏ nằm ở thái cực nào. Nhưng lẽ tồn tại của chúng rất khác nhau. Lịch sử lớn, vì là lớn, nên nó có sức nặng. Sức nặng của chì, sức nặng của tôi rèn, của những bộ áo giáp. Nó được thành hình, cố kết và bén rễ, bằng “siêu” cấu trúc của xã hội, chẳng hạn như ký ức văn hóa, hay di chỉ của ký ức theo cách gọi của Pierre Nora. Lịch sử nhỏ thì khác, chúng có thể đơn giản là các ấn tượng được xâu chuỗi.1 Chúng được thành hình, tản mác, qua hồi tưởng của các cá nhân. Chúng bồng bềnh như những đám mây; mây thành hình, kết tụ rồi tan rã. Một người sẽ nhìn mây và tự hỏi, khi nào mây chuyển thành mưa?
Vai trò của sử quan (perspective)
Để tách biệt lịch sử lớn, lịch sử trung và lịch sử nhỏ, chúng ta cần tới một định nghĩa về “sử quan”. Từ tiếng Anh tương ứng của “sử quan” là perspective, mặc dù trong bối cảnh khác perspective có thể được dịch là “góc nhìn”, “quan điểm”, hay “viễn cảnh”. Bài này tôi sẽ không cố gắng đưa ra định nghĩa “sử quan” mà chủ yếu bàn về tầm quan trọng của nó khi ta muốn thử nhìn khác đi về khái niệm lịch sử như nó từng là.
Hiểu đơn giản, có thể tạm coi (tạm thôi nhé) “sử quan” là một lăng kính, để định hình. Đó có thể là lăng kính của mỗi cá nhân, của một nhóm người có mối liên hệ về văn hóa, của một “cộng đồng tưởng tượng”, hoặc của một tầng lớp thống trị — tương ứng với nó, là những người viết, nhà sử học, là hàn lâm viện, các quan lại có mối liên hệ tương hỗ với tầng lớp thống trị ấy.
Sử quan ở phía phi chính thống, ở biên và bên lề, ở xa trung tâm luôn là thứ ít được nói đến nhất, trong mối quan hệ với lịch sử lớn. Người ta có thể lập luận rằng ở bên lề thì làm gì có sử quan, vì chúng quá tản mác, phân kỳ, chúng luôn nương theo những lối rẽ bất chợt, chúng nương theo ý muốn hay đôi khi là huyễn tưởng của cá nhân. Chúng chỉ là những góc nhìn. Hoặc, người ta có thể nói, sử quan bên lề là tiếng nói chống đối, của phản kháng, của reactionary, của một đứa trẻ hư hỏng — tức là, tiếng nói phản-lịch sử, anti-progress, mà đã phản-lịch sử thì làm sao gọi là “sử”?
Tôi nghĩ đó là những cuộc tranh luận chúng ta còn thiếu. Đó là điểm quan trọng để đi đến việc phải đổi mới dạy sử như thế nào. Và để học sinh yêu thích môn sử. Mặc dù nói ra thật cliché (tôi nổi cả gai ốc), nhưng sự thật là vậy. Suốt cả những năm học phổ thông, tôi chưa bao giờ là một người “đọc” sử. Và sau những năm học phổ thông, tôi chưa bao giờ là một người đọc sử Việt Nam. Vì, như đã nói ở đâu đó, tôi thấy nó xa lạ; người ta không thể đổ lỗi cho tôi vì thấy nó xa lạ. Và thêm nữa, tôi thấy những chuyện kể ấy không có giọng; và vì không có giọng, chúng không thể đáng nhớ; và nhất là, không có giọng, người đọc hầu như không đọng lại được gì về những cuộc đời khác, của những con người khác sống ở thời đại khác.
(Để lấy ví dụ cụ thể về “giọng” đọc của lịch sử mà ta không cảm thấy xa lạ, bạn có thể vào sub về lịch sử trên reddit, chẳng hạn r/AskHistorians.)
Đọc sử cần giọng, và giọng ấy không xa lạ.
Đây là thứ người ta có thể học rất nhiều từ tiểu thuyết. Houellebecq nói, hư cấu và tiểu thuyết sinh ra không phải để cho người ta cao ngạo về việc đọc rộng hiểu nhiều; chúng là để cho ta biết về những cuộc đời khác ta, vì mỗi cuộc đời ta là chưa đủ.
Sự cần có giọng và sự cần để biết về những cuộc đời khác, là yếu tố then chốt kết nối giữa “lịch sử” và “chuyện kể”, giữa history và histories, giữa l'Histoire và les histoires, là điểm khác biệt giữa Herodotus hay một cụ già tóc bạc ngồi bên đốm lửa kể chuyện, với một hội đồng và ban biên soạn sách giáo khoa lịch sử. Một “ban biên soạn”, trong đa phần các tình huống, là cây bút lông xóa nhòa các giọng. Trông giống như vầy:
Để tìm lại những lịch sử nhỏ, để chúng không bị rơi vào lãng quên, để mang lại cho chúng sức nặng, ta cần một “sử quan”, hay đúng hơn là, ta nên hiểu về “sử quan” như thế nào.
Vài điểm cần có của sử quan
Sử quan không phải công cụ
Trước hết, sử quan không phải một công cụ. Không phải kính thiên văn hay ống nhòm, một lăng kính máy móc (kiểu như kính lúp). Đó không phải perspective được tạo ra và áp đặt từ bên ngoài, mà nó đến từ ta, một con người, một cá thể của tự nhiên. Sinh linh của tự nhiên luôn có những giới hạn của nó, không giống như thể một cái ống nhòm nhìn xa được hai cây số.
José Ortega y Gasset từng lấy một ví dụ về một người đi trên con đường mòn ở trong rừng. Anh ta đi bộ trong khoảng không bao la, dưới những tán cây rộng lớn. Và ở bất kỳ hướng nào anh ta cũng chỉ có thể nhìn thấy dăm chục mét trước mặt. Anh ta vì thế không có khả năng hiểu biết về những khu vực ở xa mình, rằng phía sau mỏm đá kia có một thác nước, hay bên kia ngọn đồi có một bầy thỏ. Anh ta không thể có perspective về mọi hướng, về mọi chỗ của khu rừng.
Và dĩ nhiên, anh ta không có Google Maps; tức là, một người phàm, không thể tự đặt layer lên phạm vi nhìn và phạm vi hiểu biết của mình, giống như một chiếc ống nhòm nhìn ban đêm, hay cách Google Maps có thể biết được về mật độ giao thông hay thời gian cần thiết để đi từ điểm này đến điểm nọ.
Sử quan là cá nhân và con người
Như thế, sử quan cần phải hiểu là một thứ hết sức con người. (Các nhà Mác xít khi bàn về sự thay đổi của các mô hình xã hội sẽ không bằng lòng với điểm này, vì nói như thế là phản biện chứng, là không coi trọng tiến trình thay đổi của xã hội. Nhưng…) Đây lại là điểm cốt yếu đối với một người “đọc” lịch sử — và học sinh ở trường phổ thông cũng thuộc típ như vậy. Chưa nói đến một bài học lịch sử có đóng được vai trò “kể” được hay không, nhưng học sinh, người “đọc” luôn nhìn vào văn bản đó từ phía mình. Họ xử lý thông tin đó từ kinh nghiệm, bằng những thớ cơ, bằng các nơ ron thần kinh, bằng các phân mảnh ký ức được tạo ra trước đó từ những năm tháng họ sống cuộc đời họ, cái đã.
Đọc, và học, để làm gì nếu không được trước tiên sống như mình là? Anh ấy, và chị ấy là một thanh niên mười sáu tuổi sống ở một vùng ranh giữa nông thôn và thành thị, có bố làm giáo viên trường dân tộc nội trú, mẹ làm buôn bán nhỏ, chẳng hạn. Tất tật phông nền và kinh nghiệm của người đó xác định cách họ nhìn và đọc một văn bản. Họ nghe được giọng đọc văn bản trong đầu mình. Nhưng họ không nghe thấy giọng kể câu chuyện đó, trìu mến, không gồng, không đe nạt, thì có là 52 tiết hay 85 tiết mỗi năm cũng vậy mà thôi.
Sử quan là hoàn cảnh
Như đã nói, mỗi người đọc có hoàn cảnh khác nhau. Vấn đề không nằm ở chỗ, có mấy mươi triệu người đọc thì biên soạn một cuốn sách sử, một bài học lịch sử làm thế nào đáp ứng được cho bằng ấy kỳ vọng khác nhau. Ở đây, ta quay lại điểm nói ở trên về chuyện kể, về việc chuyện kể giới thiệu cho ta về những cuộc đời khác. Mỗi người đọc có một hoàn cảnh. Người kể không cần phải thích nghi với từng hoàn cảnh đó. Việc của người kể là kích thích người đọc thấu cảm về những hoàn cảnh khác, hay — ta bắt tay lại với các nhà Mác xít để nói theo cách của họ — những cuộc đấu tranh của những người khác.
Vì mỗi mình cuộc đời ta là chưa đủ.
Vì một perspective đơn độc và lẻ loi, chỉ có thể nhìn về một hướng nhất định, là chưa đủ để người ta đúc kết một điều gì đó — ta tạm coi sự đúc kết đó là yêu cầu có thể chấp nhận được của việc học. Người đọc cầm cuốn sách lên và đọc trong một khoảnh vườn. Một nhà văn viết lên câu chuyện trong căn nhà gỗ dùng cho việc viết lách của chị ta. Sử quan đến từ mỗi cá nhân, và từng cá nhân có sự tương tác với hoàn cảnh của họ. Hay nói như George Herbert Mead, ta cần xét đến một tiểu sinh thái, ở trong đó ta có một "môi trường" bao quát hơn bao hàm một hoặc vài môi trường khác.
Mead nói ta hãy hình dung một người nông dân, một cây vả và con ông mật. Chúng ta có ba sinh vật sống, và ba perspective. Perspective của cây vả và của con ong mật nằm thuộc trong perspective của người nông dân đang tìm cách đưa con ong đến hút mật hoa cho cây vả, để cho hoa đậu trái. Hai môi trường của cây và ong nằm trong một môi trường lớn hơn, và cả ba môi trường ấy đều liên quan đến nhau. Vì… mỗi mình cuộc đời ta là chưa đủ.
***
Yếu tố hoàn cảnh này giúp ta có thể đi sâu vào việc xây dựng lại những lịch sử nhỏ (giả dụ chúng đã bị lãng quên, hoặc bị gạt sang bên lề). Ta có một vài mô hình có thể dùng đến (con người cá nhân của Ortega hay hệ sinh thái của Mead); tạm thời, mô hình nào không quan trọng. Điều liên quan ở đây là, cái sẽ được xây dựng thành những “bài học” lịch sử cần cân nhắc đến yếu tố cộng đồng, sự thân thuộc — thậm chí ở mức độ cảm giác — đối với những người “học” và “đọc”. Mà để người học cảm được, người dạy cần phải hiểu rằng mỗi góc nhìn, dù trong tổng thể nó có phân kỳ đến đâu, đều cần được tôn trọng.
Trong tổng thể xã hội, tầm quan trọng của lịch sử nhỏ cần được nhắc đến và bàn đến, để chúng ta có cách hình dung khác đi một chút về cách lịch sử tạo hình. Nó có thể giống những đám mây, hình gấu teddy hay thỏ trắng xinh, tùy theo cách người nhìn, được dựng từ những ấn tượng được xâu chuỗi. Dĩ nhiên, để “kể” lịch sử cần có một logic nhất định, nhưng logic ấy vẫn có thể mờ, phản trung tâm, và bên lề. Logic ấy vẫn có thể bao hàm và trỏ đến tất cả các logic của sự mơ hồ (vagueness cũng quan trọng chứ, vì nó là cách thế giới khởi sinh!).
Theo nghĩa đó, lịch sử không phải như một ngọn núi. Không, nó không phải như một ngọn núi.
Có lẽ lịch sử luôn bắt đầu từ những "ấn tượng". Ấn tượng được sinh ra và phát nở từ một chớp sáng trong đầu ta, nó thành hình như là một phần của trí tưởng tượng tập thể. Từ "ấn tượng" ấy, bằng cái nhìn hồi cố, người ta bắt đầu gán cho nó những kích thước, đường kính, chu vi, điểm bắt đầu, điểm kết thúc, v.v.